Những công tác cơ bản trong phòng thí nghiệm hóa học

QUẢNG CÁO

Các công tác cơ bản trong phòng thí nghiệm hoá học là cắt và uốn ống thuỷ tinh, chọn và khoan nút, lắp và sử dụng dụng cụ thí nghiệm, hoà tan, lọc, kết tinh, pha chế dung dịch hoá chất, rửa bình, lọ, đun nóng, bảo quản hoá chất, bảo hiểm trong phòng thí nghiệm hoá học.

I. Cắt và uốn ống thuỷ tinh

1. Chọn ống thuỷ tinh

ở phòng thí nghiệm trường phổ thông thường hay dùng loại ống thuỷ tinh có đường kính 4 – 6mm và có bề dày 1 – 2mm. Các loại ống thuỷ tinh sản xuất trong nước có thể đảm bảo được yêu cầu này của phòng thí nghiệm.

2. Cắt ống thủy tinh

a. Loại ống thuỷ tinh có đường kính dưới 10mm. Dùng giũa sắt có cạnh, giũa ngang chỗ định cắt thành một vệt nông và bôi ngay một ít nước lạnh vào vết giũa. Dùng hai tay nắm chặt ống ở chỗ gần sát vệt cắt, hai ngón tay cái đặt đối diện với nhau, cách nhau 2cm, dứt ngang về hai phía, vệt cắt ở ống thuỷ tinh sẽ thẳng (hình 1.1). Không nên bẻ gập ống thuỷ tinh làm cho vệt cắt không được thẳng. Sau khi cắt nên hơ nóng vệt cắt trên ngọn đèn cồn để hai đầu ống không còn sắc cạnh.

b. Loại ống thuỷ tinh có đường kính từ 10mm đến 30mm. Cũng dùng giũa có cạnh, giũa ngang chỗ định cắt thành một vệt dài chừng 3 – 4mm, lập tức bôi một ít nước lạnh vào đầu vết giũa. Hơ nóng đỏ đầu một đũa thuỷ tinh đã vuốt nhọn và đặt đầu đũa này vào gần đầu vết cắt, ống sẽ đứt hẳn ra.

3. Uốn ống thuỷ tinh

Ở đây trình bày về kĩ thuật uốn ống thuỷ tinh trên đèn cồn, vì công việc uốn ống thuỷ tinh ở các trường phổ thông là rất cần thiết và thường chỉ được tiến hành với đèn cồn.

Ống thuỷ tinh cần được rửa sạch và để khô trước khi đem uốn. Khi uốn ống thuỷ tinh, tay trái đỡ ống, tay phải cầm ống và dùng ngón tay cái cùng với ngón tay trỏ xoay đều ống trên chỗ nóng nhất của đèn cồn. Cần hơ nóng đều một đoạn ống dài bằng chiều dài của cung sẽ được tạo thành, sau đó mới hơ nóng tập trung vào một chỗ. Khi ống thuỷ tinh nóng đỏ và mềm ra thì dùng hai tay uốn nhẹ từ từ. Sau đó di chuyển ống thủy tinh đi một ít để hơ nóng tập trung vào chỗ bên cạnh và lại tiếp tục uốn nhẹ. Từ lúc ống đã bắt đầu được uốn cong thì chỉ xoay và hơ nóng phía cong bên trong ống để khỏi có nếp gấp. Không nên chỉ hơ nóng và uốn cong ở một điểm. Làm như thế ống sẽ bị bẹp ở chỗ uốn. Trong phòng thí nghiệm thường dùng các ống loại thuỷ tinh theo mẫu ở hình sau:

II.   Chọn nút và khoan nút

1. Chọn nút

Thường dùng các loại nút sau đây: nút cao su, nút bấc, nút thuỷ tinh. Tuỳ theo hoá chất đựng trong bình mà tìm nút cho thích hợp. Nút cao su không dùng để đậy những lọ đựng các dung môi hữu cơ (như benzen), khí clo hoặc những chất ăn mòn làm hỏng cao su (như H2SO4 đặc, HNO3). Không nên dùng nút bấc, lie để đậy các lọ đựng axit mà phải dùng nút thuỷ tinh.

Ba cỡ nút cao su hay dùng ở phòng thí nghiệm có đường kính ở đầu nhỏ là 1,5cm; 2cm và 2,5cm. Nút bấc thường có nhiều lỗ nhỏ nên nút không được kín. Vì vậy sau khi đậy nên dùng parafin tráng lên mặt và xung quanh nút.

Việc chọn nút cho thích hợp với miệng bình, miệng ống cũng rất quan trọng, nhất là khi làm thí nghiệm có các chất khí. Nếu dùng nút bấc thì chọn nút lớn hơn miệng bình lọ một ít, sau đó dùng dụng cụ ép nút cho nhỏ hơn. Nếu dùng nút cao su, lie hay nút thuỷ tinh thì phải chọn vừa miệng bình.

2. Khoan nút

Khi cần cắm ống dẫn khí, nhiệt kế, v.v… xuyên qua nút thì phải dùng khoan để khoan nút. Bộ khoan nút thường có từ 10 đến 12 chiếc và một que thông (hình 1.3). Phải chú ý giữ cho khoan nút được tròn, không bị méo, sứt.

Khi khoan nút, bao giờ cũng dùng khoan nhỏ hơn ống thuỷ tinh định lắp vào một ít, có như thế về sau lắp mới kín. Khi bắt đầu khoan, nhúng khoan vào nước hay xà phòng, tay phải cầm khoan và cầm sát vào nút, tay trái giữ chặt nút. Đặt lưỡi khoan vào đầu to của nút ở đúng chỗ muốn khoan, giữ cho trục khoan song song với trục nút. Xoay nhẹ khoan theo một chiều nhất định. Khi lưỡi khoan bắt đầu in vào nút thì chuyển tay phải ra giữ đầu khoan (hình 1.4) và khoan mạnh. Khi khoan gần xuyên qua nút thì kê nút lên một nút cũ đã hỏng hoặc một tấm gỗ mềm rồi khoan tiếp tục, tuyệt đối không kê lên trên kim loại hoặc đá.

3. Lắp ống và đậy nút

Ống thuỷ tinh lắp vào nút cần phải hơi lớn hơn lỗ khoan một ít. Nếu lỗ khoan nhỏ quá thì dùng giũa tròn hay dùi đã được đốt nóng dùi ra. Trước khi lắp vào nút nên nhúng ống thuỷ tinh vào nước cho dễ lắp. Để cho ống thuỷ tinh không bị gẫy và không làm đứt tay, tay phải cầm ống ở gần sát phía đầu ống lắp vào nút và xoay cho ống vào nút dần dần (hình 1.5). Tuyệt đối không được cầm ở chỗ uốn cong của ống.

Khi đậy nút vào miệng lọ (hoặc ống nghiệm), tay trái cũng phải cầm hẳn vào cổ lọ hay miệng ống nghiệm ở phía gần nút, không được tì đáy bình cầu vào bàn hay một vật khác, dùng tay phải xoay nút vào dần dần cho đến khi nút ngập sâu vào miệng bình độ 1/3.

Khi thiếu nút cao su có thể cắt những ống cao su (loại thành dày, lỗ nhỏ) ra và đem sửa (mài hoặc gọt) thành nút. Chọn những loại ống thuỷ tinh thích hợp lắp vào, ta sẽ được những nút cao su có ống dẫn khí xuyên qua rất tốt.

III. Lắp dụng cụ thí nghiệm

Trước khi lắp dụng cụ thí nghiệm cần phác hoạ sơ đồ dụng cụ, thống kê các bộ phận cần thiết, chọn đủ các dụng cụ ấy rồi mới lắp. Cần lắp các bộ phận đơn giản trước. Nếu có dùng những hoá chất có tác dụng với cao su thì nên lắp ống thuỷ tinh làm ống dẫn, chỉ các chỗ nối mới lắp ống cao su. Đường kính bên trong của ống cao su phải hơi nhỏ hơn đường kính bên ngoài của ống thuỷ tinh. Không nên để một ống thuỷ tinh dài uốn cong nhiều khúc mà nên thay bằng những đoạn nối bằng ống cao su để tránh bị gẫy ống dẫn khi đang làm thí nghiệm. Đoạn ống cao su để nối đó không nên dài, nhất là khi làm thí nghiệm với các chất ăn mòn được cao su. Khi lắp dụng cụ cần chú ý hai yêu cầu sau:

– Thuận tiện cho thí nghiệm.

– Hình thức bên ngoài gọn, đẹp, kích thước các bộ phận tương xứng với nhau.

Sau khi lắp xong, cần thử lại xem dụng cụ đã kín chưa, nhất là đối với các dụng cụ dùng trong những thí nghiệm có chất khí tham gia. Có hai cách thử:

– Dùng miệng thổi vào và nhỏ nước lên các chỗ nối để kiểm tra.

– Nhúng đầu ống dẫn vào nước, dùng tay nắm chặt ống nghiệm hoặc bình cầu. Nếu dụng cụ đã được lắp kín, thì do thân nhiệt của bàn tay, không khí trong ống nghiệm hoặc bình cầu nở ra sẽ đẩy nước mà thoát ra ngoài thành những bọt khí.

IV.   Hoà tan, lọc, kết tinh lại

1. Hoà tan

Khi hoà tan hai chất lỏng vào nhau cần luôn luôn lắc bình đựng để cho dung dịch đồng nhất.

Khi hoà tan chất rắn vào chất lỏng, nếu chất rắn có tinh thể to, ta phải nghiền nhỏ thành bột trước khi hoà tan. Dùng nước cất để hoà tan các chất, không dùng nước máy, nước giếng,… Nếu không có nước cất thì bất đắc dĩ có thể dùng nước mưa hứng ở trên cao và ở chỗ sạch. Nếu hoà tan trong cốc thuỷ tinh và bình hình nón thì dùng đũa thuỷ tinh để khuấy. Đầu các đũa thuỷ tinh này phải được bọc bằng ống cao su lồng vừa khít vào đầu đũa thuỷ tinh, đầu ống cao su dài hơn đầu đũa khoảng 2mm. Nếu hoà tan một lượng lớn chất tan trong bình cầu thì phải lắc tròn. Hoà tan trong ống nghiệm thì lắc ngang, không lắc dọc ống nghiệm. Đa số chất rắn khi đun nóng sẽ tan nhanh hơn. Vì vậy khi hoà tan ta có thể đun nóng.

2. Lọc

Lọc là phương pháp tách những chất rắn không tan ra khỏi chất lỏng. Trong phòng thí nghiệm thường dùng giấy lọc để lọc. Cũng có thể dùng giấy bản loại tốt, bông, bông thuỷ tinh để lọc.

a. Cách gấp giấy lọc

Dưới đây là cách gấp giấy lọc đơn giản (không gấp thành nhiều nếp) dùng khi cần lấy kết tủa ra và cần giữ kết tủa lâu. Lấy tờ giấy lọc hình vuông có cạnh bằng hai lần đường kính phễu lọc. Gấp đôi rồi gấp tư tờ giấy (hình 1.6a, b). Dùng kéo cắt tờ giấy theo đường chấm hình vòng cung (hình 1.6c) thành một hình quạt. Tách 3 lớp giấy của hình quạt làm thành hình nón (hình 1.6d).

Hình 1.6. Cách gấp và cắt giấy lọc

b. Cách lọc

Trước hết đặt giấy lọc khô đã gấp thành hình nón vào phễu và điều chỉnh cách gấp sao cho góc của nón phễu giấy vừa bằng góc của nón phễu thuỷ tinh để giấy lọc sát khít với phễu. Cần cắt giấy lọc như thế nào cho mép giấy lọc thấp hơn và cách miệng phễu khoảng 5 – 10mm. Đổ một ít nước cất vào tẩm ướt giấy lọc rồi dùng ngón tay cái (đã rửa sạch) đẩy cho giấy ép sát vào phễu để đuổi hết bong bóng khí ở cuống phễu và dưới giấy ra.

Hình 1.7 Cách lọc

Đặt phễu lọc lên giá sắt (hình 1.7). Dùng cốc sạch hứng dưới phễu sao cho cuống phễu chạm vào thành cốc. Khi rót chất lỏng vào phễu lọc, nên rót xuống theo một đũa thuỷ tinh.

Không đổ đầy chất lỏng đến tận mép giấy lọc. Muốn lọc được nhanh, trước khi lọc nên để lắng, đừng làm vẩn kết tủa và lọc phần nước trong nước.

3. Kết tinh lại

Kết tinh lại là quá trình một chất rắn kết tinh được chuyển vào dung dịch bằng cách đun nóng với một dung môi nào đó và sau khi làm lạnh dung dịch, nó lại xuất hiện ở trạng thái tinh thể nhưng tinh khiết hơn.

Trong phòng thí nghiệm hoá học, người ta thường lợi dụng quá trình kết tinh lại để tinh chế các chất, để phân chia hỗn hợp các chất kết tinh lại để tinh chế, để phân chia hỗn hợp các chất kết tinh, v.v… Quá trình kết tinh lại dựa vào một tính chất vật lí của các chất kết tinh là thay đổi độ tan trong dung môi theo nhiệt độ.

Cách tiến hành: Cho chất cần kết tinh lại vào bình hình nón, cho dần nước hoặc dung môi hữu cơ vào để được dung dịch hơi quá bão hoà. Đun nóng dung dịch, nhưng chỉ đun đến nhiệt độ dưới nhiệt độ sôi của dung môi, để được dung dịch bão hoà nóng. Lọc nhanh dung dịch bão hoà nóng. Phải dùng phễu lọc nóng để lọc. ở dưới phễu, để chậu kết tinh. Các tinh thể sẽ được tạo thành dần dần. Muốn có tinh thể nhỏ, ta làm lạnh nhanh bằng cách đặt chậu kết tinh vào nước lạnh hoặc nước đá, đồng thời lắc mạnh. Nếu muốn có tinh thể lớn thì để bình nguội từ từ và không đụng chạm vào bình.

V. Pha chế dung dịch

Pha chế dung dịch là một trong những công việc quan trọng ở phòng thí nghiệm hoá học.

Khi pha chế dung dịch cần tuân theo các quy tắc sau đây:

1) Bình, lọ để pha chế dung dịch phải được rửa sạch và tráng nước cất trước khi pha.

2) Phải dùng nước cất để pha hoá chất (nếu không có thì có thể dùng nước mưa thật sạch, tuy không được tinh khiết).

3) Trước khi pha dung dịch cần phải tính toán lượng chất tan và
dung môi.

4) Nên pha dung dịch kiềm đặc vào bình sứ.

5) Nếu có thể nên kiểm tra lại nồng độ của dung dịch bằng tỉ khối kế.

6) Sau khi pha xong dung dịch, cần phải cho vào lọ có màu thích hợp, đậy kín và dán nhãn để bảo quản tốt dung dịch.

Khi pha chế dung dịch, người ta thường dùng các loại ống đo, bình định mức, pipet có chia độ. Bình định mức dùng để pha dung dịch theo nồng độ mol/lít và nồng độ đương lượng. Vạch ở trên cổ bình cầu hoặc ở trên pipet là để chỉ mức chất lỏng cần lấy vào bình hoặc pipet. Khi khuấy dung dịch cần dùng loại đũa thuỷ tinh có bịt ống cao su ở đầu để tránh vỡ ống đo hoặc bình, lọ.

Các dung dịch thường được pha theo các loại nồng độ:

– Nồng độ phần trăm

– Nồng độ mol/lít

– Nồng độ đương lượng (nguyên chuẩn).

Dưới đây là cách pha một số dung dịch:

1.   Pha dung dịch của chất rắn trong nước theo nồng độ phần trăm

a. Pha dung dịch của chất rắn không ngậm nước

Trước khi pha phải tính lượng chất tan và lượng nước cần dùng là bao nhiêu. Ví dụ pha chế 250g dung dịch 10% một chất đã cho (chẳng hạn natri clorua, bari clorua, đồng sunfat,…). Ta tính 10% của 250g, đó là 25g. Như thế phải lấy 25g chất tan và 225g nước (225g nước chiếm một thể tích là 225ml, ở đây bỏ qua sự thay đổi tỉ khối của nước theo nhiệt độ). Dùng cân sẽ lấy được 25g chất tan, còn 225ml nước thì dùng ống chia độ để đong.

b. Pha dung dịch của chất rắn ngậm nước

Trước hết phải tính lượng muối không ngậm nước rồi suy ra lượng muối ngậm nước.

Ví dụ: Pha 100g dung dịch 10% đồng sunfat từ muối CuSO4. 5H2O.

Lượng đồng sunfat trong 100g dung dịch là 10g. Khối lượng mol của CuSO4.5H2O = 250g. Khối lượng mol của CuSO4 bằng 160g.

Lượng muối đồng sunfat ngậm nước là x được tính theo tỉ lệ:

Vậy phải cân lấy » 15,6g CuSO4.5H2O và đong » 84,4g nước đem hoà tan vào nhau.

2. Pha dung dịch chất lỏng trong nước theo nồng độ phần trăm

Phương pháp này thường được dùng khi pha dung dịch có nồng độ đã định từ một dung dịch khác.

Ví dụ: Pha 250g dung dịch axit sunfuric 10% từ dung dịch H2SO4 đặc hơn.

Cần phải dùng tỉ khối kế để đo tỉ khối của dung dịch H2SO4 đặc đem pha (rót axit đặc vào đến 3/4 ống đo rồi nhúng từ từ tỉ khối kế vào). Giả sử đo được d = 1,824. Bảng tính sẵn cho ta biết nồng độ của dung dịch axit đó là » 92%. Nếu lọ axit đặc đã được giữ kín cẩn thận và vì không có tỉ khối kế thì có thể sử dụng các con số về tỉ khối và nồng độ ở trên nhãn các lọ axit đó.

Muốn pha 250g dung dịch 10% H2SO4 thì phải lấy 25g axit nguyên chất 100%. Nhưng ở đây chỉ có axit 92% nên phải lấy:

Lượng axit này bằng: 27,2 : 1,824 = 14,9ml.

Dùng ống đo nhỏ lấy 14,9ml axit H2SO4 đã cho rót vào ống đo khác đã đong sẵn 222,8ml (250g – 27,2g = 222,8g) nước, ta sẽ được dung dịch cần dùng. Có thể kiểm tra lại bằng cách dùng tỉ khối kế đo khối lượng riêng. Dung dịch 10% axit sunfuric mới pha chế phải có khối lượng riêng gần bằng 1,1g/ml.

3. Pha dung dịch có nồng độ mol/lít (M)

Ví dụ: Cần pha 250ml dung dịch 0,1M natri clorua. Khối lượng mol của natri clorua là 58,5g. Trong 1 lít dung dịch 0,1M có 0,1 mol (= 5,85g) natri clorua. Vậy trong 250ml dung dịch phải có 5,85 : 4 » 1,46 gam muối ăn. 
Do đó cần lấy gần 1,5g natri clorua cho vào ống đo rồi tiếp tục thêm nước cất vào cho đủ 250ml. Như thế ta được dung dịch cần pha chế. Muốn được chính xác hơn thì pha chế vào bình định mức.

4. Pha dung dịch có nồng độ đương lượng (N)

Ví dụ: Pha 100ml dung dịch 0,1N muối bari clorua BaCl2.2H2O. Muối bari clorua ngậm nước có khối lượng mol là 224 và đương lượng bằng 244 : 2 = 122. Dung dịch BaCl2.2H2O có nồng độ 0,1N nghĩa là trong 1 lít dung dịch có 12,2g BaCl2.H2O. Vậy trong 100ml dung dịch có 1,22g BaCl2.2H2O. Quá trình pha dung dịch được tiến hành như trên.

5. Pha dung dịch có nồng độ đã định trước theo khối lượng riêng

Cách pha dung dịch đơn giản hơn cả là dùng tỉ khối kế, rồi đối chiếu với bảng nồng độ đã được tính sẵn.

Rót dung dịch vào ống đo, nhúng tỉ khối kế vào đó. Nếu muốn có dung dịch loãng hơn thì cho thêm nước từ từ vào. (Nếu là axit sunfuric thì phải cho axit vào nước).

6. Pha loãng dung dịch

Trong nhiều thí nghiệm ở trường phổ thông cần dùng các dung dịch có nồng độ loãng hơn dung dịch hiện có ở phòng thí nghiệm. Lúc đó phải pha loãng dung dịch. Sự pha loãng thường được biểu thị bằng tỉ số 1 : 1, nghĩa là cứ 1 thể tích dung dịch ban đầu ta thêm vào 1 thể tích dung môi.

7. Pha chất chỉ thị và một số thuốc thử đặc biệt

a. Dung dịch quỳ

Quỳ (tím) là một chất hữu cơ có màu được lấy từ một số loại rêu biển (địa y). Cũng như một số chất màu thực vật khác, màu của nó biến đổi theo môi trường phản ứng. Khoảng chuyển màu là từ pH = 5,0 đến pH = 8,0
(đỏ trong môi trường axit, xanh trong môi trường kiềm).

Cách pha dung dịch quỳ: Hoà tan 1g bột quỳ vào 1 lít dung dịch rượu etylic loãng (1 phần rượu và 4 phần nước), sau đó lọc qua bông thấm nước. Cũng có thể hoà tan bột quỳ vào ngay nước cất nhưng nó tan kém hơn và phải lọc kĩ hơn cho khỏi bị cặn.

Cách làm giấy quỳ: Trước hết biến đổi dung dịch đặc quỳ trung tính thành quỳ đỏ hay quỳ xanh bằng cách thêm vào đó một lượng nhỏ axit (H2SO4 chẳng hạn) hay kiềm (NaOH). Đổ dung dịch quỳ đỏ ra chậu thuỷ tinh có thành thấp. Nhúng các băng giấy lọc đã được cắt sẵn vào chậu và kéo lướt qua dung dịch. Dùng cặp, kẹp các băng giấy đã nhuộm lên dây thép ở trong phòng sao cho các băng giấy không chập vào nhau. Khi băng giấy khô, cắt thành từng đoạn ngắn khoảng 6 – 8cm. Cần giữ giấy quỳ trong những bình thuỷ tinh có nút thật kín.

b. Dung dịch phenolphtalein

Phenolphtalein là một chất màu tổng hợp, nó biến đổi màu theo môi trường phản ứng, không có màu trong môi trường axit và trung tính, có màu hồng (chính xác là màu đỏ tím) trong môi trường kiềm. Khoảng chuyển màu của nó từ pH = 8,2 đến pH = 10.

Cách pha: Lấy 1g phenolphtalein cho vào 1000ml dung dịch rượu etylic khoảng 60%.

c. Chất chỉ thị axit – bazơ chế từ hoa dâm bụt

Nếu không có các chất chỉ thị trên đây để thử môi trường axit – bazơ, ta có thể tự chế lấy chất chỉ thị rất đơn giản, dễ dàng như sau: lấy cánh hoa dâm bụt bỏ vào trong lọ có đựng cồn, càng nhiều cánh hoa thì chất chỉ thị càng đặc. Đậy nút kín. Dung dịch dần dần có màu tím và sau khoảng 2 giờ thì có thể dùng làm chất chỉ thị axit – bazơ.

Chất chỉ thị này, ở trong môi trường axit sẽ có màu hồng bền, trong môi trường trung tính thì không có màu hoặc màu tím; trong môi trường kiềm có màu xanh, nhưng không bền vì nó nhanh chóng biến đổi sang màu vàng. Khoảng chuyển màu của nó từ pH = 7,5 đến pH = 9.

Cũng có thể làm giấy chỉ thị từ hoa dâm bụt bằng cách thấm ướt giấy lọc bằng dung dịch loãng của hoa dâm bụt trong cồn hoặc lấy cánh hoa dâm bụt xát vào giấy lọc. Tính chất của chất chỉ thị không thay đổi ở cả nhiệt độ cao (1000C) và được giữ khá bền trong cồn.

d. Pha dung dịch hồ tinh bột

Hồ tinh bột được dùng rộng rãi nhất để nhận ra iot tự do. Muốn pha 150 – 200ml hồ tinh bột thì lấy 0,5g tinh bột đã nghiền nhỏ cho vào nước lạnh làm thành bột loãng. Vừa khuấy đều vừa đổ từ từ bột loãng đó vào
150 – 180ml nước đun sôi, ta sẽ được hồ tinh bột.

Cũng có thể làm theo cách khác: hoà tan 0,5g tinh bột vào 100ml nước cất đun sôi, tiếp tục đun sôi lại 5 phút nữa rồi để nguội. Có thể dùng nước cơm thay hồ tinh bột.

e. Nước vôi

Nước vôi dùng để nhận ra khí cacbonic và là kiềm rẻ tiền nhất.

Cách pha: Hoà tan vôi tôi vào nước. Vì độ tan của vôi tôi rất nhỏ nên phải pha như sau: Cho một ít vôi tôi vào bình cầu, đổ thêm nước cho đầy đến gần cổ bình để diện tích tiếp xúc giữa chất lỏng với không khí là nhỏ nhất. Đậy nút kín và để lắng hỗn hợp trong vài giờ trở lên. Sau đó lọc lấy nước trong, ta sẽ được nước vôi trong. Cần đậy nút thật kín các bình đựng nước vôi, nếu không, khi để lâu nó sẽ bị hỏng vì nước vôi tác dụng với khí cacbonic của không khí.

VI.   Cân và cách sử dụng cân

Trong phòng thí nghiệm trường phổ thông thường hay dùng cân kĩ thuật (cân đĩa, cân quang,…).

1. Cân đĩa (cân Rôbecvan)

Phải đặt cân trên mặt bàn bằng phẳng. Khi không cân, kim chỉ thăng bằng phải ngang nhau. Nếu không thăng bằng cần phải vặn lại hai ốc điều chỉnh ở hai đầu cán cân.

Quả cân: Cân đĩa thường có hộp đựng các quả cân: 1 quả 100g,
1 quả 50g, 1 quả 20g, 2 quả 10g, 1 quả 5g, 2 quả 2g và một số quả cân nhỏ dưới 1g là những mảnh nhôm nhỏ hình vuông hay hình tam giác. Khi không dùng phải để quả cân ở trong hộp với ô tương ứng. Dùng kẹp lấy quả cân, không được cầm quả cân bằng tay vì sẽ làm cho quả cân mất chính xác.

Cách cân: Tuyệt đối không được để hoá chất trực tiếp lên đĩa cân; hoá chất lỏng đựng vào cốc hay các bình đựng khác có kích thước thích hợp. Khi cân hoá chất rắn, lấy hai tờ giấy cùng khổ đặt lên hai đĩa cân cho thăng bằng. Đổ hoá chất đó lên tờ giấy ở đĩa cân bên trái, đĩa cân bên phải thì đặt quả cân. Khi cân chất lỏng bốc khói, độc, dễ bay hơi cần dùng bình có nút.

Muốn biết khối lượng của một vật thì đặt vật đó lên đĩa cân bên trái, và đặt quả cân lên đĩa bên phải. Còn nếu muốn cân một lượng nhất định hoá chất thì đặt những quả cân có khối lượng cần thiết lên đĩa bên trái, trên đĩa cân bên phải đặt bì và đổ hoá chất dần dần vào cho đến khi cân thăng bằng.

Cần giữ cân sạch, không để hoá chất đổ ra đĩa cân.

Khi lấy quả cân bao giờ cũng bắt đầu từ quả cân nặng hơn vật một chút rồi lấy dần xuống những quả cân nhỏ. Sau đây là sơ đồ một ví dụ về cách cân.

Quả cân trên đĩa
bên phải

Trạng thái của đĩa cân bên trái

Động tác lấy quả cân

100g

Nặng quá

Đặt trên đĩa bên phải quả cân 100g, lấy quả cân 100g ra đặt quả cân 50g lên.

50g

Chưa đủ

Thêm 20g

50g + 20g

Chưa đủ

Thêm 10g

50g + 20g + 10g

Nặng quá

Lấy quả 10g ra

50g + 20g + 5g

Vừa

Thay bằng quả 5g

2.     Cân phân tích điện tử

a. Cấu tạo

Trong cân phân tích điện tử, lưỡi dao, các quả cân được thay bằng các nam châm, lò xo và mạch điện tử, có bộ nhớ để tự điều chỉnh. ở đế cân có các nút bấm và màn hình. Cân phân tích điện tử cân tối đa 100g, độ chính xác 0,1mg. Ưu điểm là cân nhanh.

b. Phương pháp cân

Dưới đây là cách sử dụng cân điện tử Saitorius (Germany) thường hay gặp trong các phòng thí nghiệm:

Hình 1.9. Cấu tạo cân phân tích điện tử


1. Đĩa cân; 2. Bóng nước; 3. Phím điều chỉnh khối lượng 0,0000g; 4. Màn hình;
5. Phím mở và tắt cân; 6. Phím để chỉnh cân; 7, 8, 9. Các phím dùng cho máy tính và in kết quả.

– Quan sát bóng nước để kiểm tra xem cân đã thăng bằng chưa; nếu chưa thăng bằng, sinh viên không được tự điều chỉnh mà phải báo cho giáo viên hướng dẫn.

– Cắm điện, sấy cân trong khoảng 30 phút, đồng thời quan sát trên màn hình, con chạy 0 ở góc trên bên phải (nghĩa là cân chưa làm việc).

– ấn phím (5) trên màn hình hiện lên một dãy số 8, sau vài giây hiện số 0,0000g. Con chạy 0 ở góc phía dưới bên trái (cân đã sẵn sàng làm việc). Nếu không phải số 0,0000g mà là số khác, ví dụ 0,0001g thì ấn phím (3) ở hai bên, điều chỉnh về số 0,0000g.

– Nhẹ nhàng đặt vật cân lên đĩa cân, đóng cửa cân, ghi khối lượng của vật cân hiện lên màn hình.

– Muốn cân một lượng hóa chất mà không muốn trừ bì: cân bì trước khi cho hóa chất, sau đó ấn phím (3) cân trở về vị trí sẵn sàng làm việc, màn hình hiện số 0,0000g. Cho hóa chất vào bì. Trên màn hình hiện lên khối lượng của hóa chất.

– Sau khi ghi khối lượng hóa chất, ấn phím (5), bỏ vật cân ra. Nếu không cân nữa, lau sạch đĩa cân và xung quanh, đóng cửa cân, ngắt điện.

Chú ý: Sinh viên không được sử dụng các phím 6, 7, 8, 9. Nếu có sự cố gì trên cân phải báo cho giảng viên hướng dẫn.

VII. Rửa bình, lọ thuỷ tinh

Sau khi làm thí nghiệm cần phải rửa sạch ống nghiệm, bình, lọ,…, có hai cách rửa:

1. Cách rửa cơ học

Cách rửa thông thường nhất là dùng nước lạnh hoặc nước nóng và chổi rửa.

2. Cách rửa hoá học

Nhiều khi dùng chổi và nước lạnh rửa không sạch nên phải dùng hoá chất.

– Trước tiên rửa bằng xà phòng.

– Nếu còn vết kết tủa thì rửa bằng axit clohiđric đặc nguội hay
đun nóng.

– Nhiều khi phải dùng đến dung môi như benzen, ete, xăng,… hoặc hỗn hợp sunfocromic. Dùng hoá chất gì để rửa là tuỳ thuộc vào chất bẩn ở trong ống nghiệm, bình, lọ.

Cách làm hỗn hợp sunfocromic như sau: Hoà tan 1 phần khối lượng muối kali bicromat với 2,5 phần khối lượng nước. Sau đó rót 1/3 phần thể tích axit sunfuric đặc (d = 1,84) vào với 2/3 phần thể tích muối bicromat vừa pha xong, nếu hỗn hợp chưa tan thì đun nhẹ trong bát sứ. Sau khi rửa chai, lọ lại đổ hỗn hợp sunfocromic vào lọ chứa. Hỗn hợp này dùng lại nhiều lần cho tới khi biến đổi thành màu xanh mới bỏ đi.

Sau khi rửa sạch bình, lọ nên tráng một lượt nước rồi úp lên giá. Các dụng cụ thuỷ tinh sau khi rửa sạch phải không còn những vết nước loang trên thành của dụng cụ.

VIII. Quy tắc sử dụng các dụng cụ thuỷ tinh

– Khi đun nóng các dụng cụ thuỷ tinh, phải đun từ từ và đều. Không được đun nóng các dụng cụ thuỷ tinh có thành dày và các dụng cụ có chia độ, cũng như không được rót nước nóng vào các dụng cụ đó.

– Không được đựng dung dịch kiềm đặc và axit đặc trong các bình thuỷ tinh mỏng.

– Những bộ phận nhám (khoá, nút) phải bôi vadơlin trước khi dùng. Khi bảo quản phải lót giấy, đánh số hoặc buộc dây để tránh nhầm lẫn.

– Phải để các dụng cụ thuỷ tinh ở tủ, ngăn riêng, tránh va chạm mạnh.

IX.   Đun nóng

1. Dùng đèn cồn

Khi đun nóng, chú ý để đáy ông nghiệm (hoặc thành của bình, lọ,… muốn đun nóng) vào chỗ nóng nhất của ngọn lửa đèn cồn, ở vị trí 2/3 của ngọn lửa đèn cồn, tức là ở vị trí 2/3 của ngọn lửa kể từ dưới lên (hình 1.10). Không để đáy ống nghiệm… sát vào bấc đèn cồn, vì làm như thế ống nghiệm… sẽ bị vỡ. Trong khi đun nóng, lắc nhẹ ống nghiệm… và nghiêng miệng ống về phía không có người.

Khi dùng đèn cồn cần chú ý đến lượng cồn trong đèn, cách châm đèn và tắt đèn. Không nên để cồn trong đèn cạn gần khô kiệt, vì cồn còn ít quá sẽ tạo với không khí thành hỗn hợp nổ. Không nên rót cồn vào đèn quá đầy mà chỉ rót đến gần ngấn cổ. Tuyệt đối không được châm đèn bằng cách lấy ngọn đèn cồn nọ châm vào ngọn đèn cồn kia, vì làm như thế cồn đổ ra sẽ bốc cháy. Muốn tắt đèn thì dùng nắp đèn chụp vào ngọn đèn mà không được thổi bằng miệng.

2. Dùng đèn dầu hoả

Những nơi không mua được cồn thì có thể dùng loại bếp dầu hoả 5 bấc hoặc đèn dầu hoả có thông phong dài trong khi thí nghiệm.

3. Dùng đèn khí

Hiện nay nhiều địa phương đã dùng bếp ga, bình ga để đun nóng. Trong những năm tới nhiều trường Sư phạm và một số trường phổ thông sẽ dùng phổ biến đèn khí. Đèn khí Bunsen có cấu tạo như hình 1.11. Đèn khí Bunsen gồm có các bộ phận: chân đế, vòi phun, ống dẫn ga (khí) vào đèn, vòng sắt để đóng mở dòng không khí vào ống kim loại, ống kim loại và (ống khói) (5).

Trước khi đốt đèn khí Bunsen, dùng tay quay (vặn) vòng sắt để đóng kín các cửa vào của không khí, sau đó mở khoá bình ga cho ga vào đèn và đưa bật lửa đã cháy vào đầu ống khói. Ngọn lửa của đèn khí có màu vàng. Nhiệt độ của ngọn lửa không cao.

Muốn sử dụng đèn khí, quay vòng sắt để mở các cửa vào cho không khí đi vào ống khói trộn lẫn với ga. Lúc này, ngọn lửa đèn khí sẽ có màu xanh, nhiệt độ của ngọn lửa được nâng cao.

X.   Bảo quản hoá chất

Các hoá chất cần thiết cho các phòng thí nghiệm hoá học thường được ghi rõ trong bảng “Hoá chất và dụng cụ cần thiết…” cho các phòng thí nghiệm ở trường phổ thông.

1.

Muốn bảo quản tốt, phòng thí nghiệm phải có tủ đựng các hoá chất. Người ta thường đặt các axit ở thể lỏng ở ngăn cuối cùng của tủ để khi lấy ra được dễ dàng, tránh đổ vỡ nguy hiểm. Không nên để nhiều và tập trung ở trong một phòng thí nghiệm các hoá chất dễ bắt lửa như xăng, benzen, ete, cồn đốt, axeton,… Chỉ nên để mỗi loại chất dễ cháy này từ 0,5 lít đến 1 lít và khi làm thí nghiệm phải để các chất này xa lửa. Phải chuẩn bị các phương tiện phòng cháy và chữa cháy. Cần đựng những hoá chất có tác dụng với cao su như brom và axit nitric trong lọ có nút thuỷ tinh.

Đối với những hoá chất dễ bay hơi, dễ tác dụng với oxi, khí cacbonic và hơi nước, cần đựng vào những lọ có nút cao su hoặc nút nhám, bên ngoài có tráng một lớp parafin. Ví dụ: bột magie và bột sắt dễ bị oxi hoá; canxi oxit và canxi cacbua dễ bị rã ra hỏng trong không khí ẩm; anhiđrit photphoric, canxi clorua, magie clorua, natri nitrat dễ hút nước và chảy rữa. Kiềm hút nước rất mạnh và dễ tác dụng với khí cacbonic trong không khí nên phải đựng vào lọ có nút rất kín, nhưng không được đựng vào lọ có nút nhám vì kiềm và các chất tạo thành sẽ làm cho nút nhám gắn chặt vào cổ lọ rất khó mở.

2.

Những hoá chất dễ bị ánh sáng tác dụng như kali pemanganat, bạc nitrat, kali iođua, nước oxi già,… cần được đựng vào lọ màu để ở chỗ tối hoặc bọc kín bằng giấy màu đen phía ngoài lọ.

3.

Những hoá chất độc như muối thuỷ ngân (clorua, nitrat và thuỷ ngân axetat), muối xianua,… cần phải để ở trong tủ có khoá riêng và phải được giữ gìn hết sức cẩn thận.

4.

Các kim loại natri và kali phải được đựng trong lọ dầu hoả hay xăng; khi làm thí nghiệm nếu còn thừa một lượng nhỏ không được vứt bừa bãi, vì sẽ dễ gây ra hoả hoạn, do đó cần được thu lại hoặc huỷ đi.

Photpho trắng được đựng vào lọ có nước, khi cắt nhỏ cũng phải cắt trong nước. Đục hộp chứa photpho trắng phải được tiến hành trong thùng nước.

5.

Muối kali clorua, kali nitrat phải được đựng vào lọ sạch, không được để lẫn với các chất cháy.

6.

Cần có nhãn ghi công thức và nồng độ của hoá chất ở phía ngoài các lọ đựng hoá chất. Các lọ hoá chất để ở bàn cho học sinh làm thực hành nên có hai nhãn đối diện nhau ở hai phía của bình, lọ.

XI. Bảo hiểm trong phòng thí nghiệm hoá học

Việc bảo đảm an toàn trong khi làm thí nghiệm là một công tác cơ bản, rất quan trọng của mọi người vào làm việc ở trong phòng thí nghiệm hoá học.

Những quy tắc cơ bản để đảm bảo an toàn khi làm thí nghiệm và một số phương pháp cấp cứu đầu tiên trình bày dưới đây cũng có thể giúp chúng ta tham khảo trong việc phòng và chống chất độc hoá học, chống ô nhiễm môi trường.

1.   Quy tắc về kĩ thuật bảo hiểm khi làm thí nghiệm

a. Thí nghiệm với chất độc

Trong phòng thí nghiệm hoá học có nhiều chất độc như thuỷ ngân (gây rối loạn thần kinh, làm rụng răng,…), hợp chất của asen, photpho trắng (làm mục xương hàm, làm bỏng,…), hợp chất xianua, khí cacbon oxit (thở không khí chứa 1% về thể tích khí cacbon oxit có thể làm người ta bị chết), khí hiđro sunfua (người ngửi phải không khí có chứa 1,2mg/l trong 10 phút cũng có thể chết), khí nitơ peoxit, khí sunfurơ, amoniac, clo, brom phá huỷ nặng cơ quan hô hấp; brom lỏng gây bỏng da, rượu metylic, phenol, axit foocmic (gây bỏng da),… Uống phải một lượng rượu metylic, khoảng 10ml, có thể gây mù mắt; benzen, xăng cũng là những chất độc. Do đó phải thận trọng khi sử dụng các chất này và phải theo đúng các quy tắc sau đây:

– Nên làm thí nghiệm với các chất khí độc ở trong tủ hốt hoặc ở nơi thoáng gió và mở rộng cửa phòng. Chỉ nên lấy lượng hoá chất tối thiểu để làm được nhanh và giảm bớt khí độc bay ra.

– Không được nếm và hút các chất độc bằng miệng. Phải có khẩu trang và phải thận trọng khi ngửi các chất. Không hít mạnh hoặc kề mũi vào gần bình hoá chất mà chỉ dùng bàn tay phẩy nhẹ hơi hoá chất vào mũi.

– Đựng thuỷ ngân trong các lọ dày, nút kín và nên có một lớp nước mỏng ở trên. Khi rót và đổ thuỷ ngân, phải có chậu to hứng ở dưới và thu hồi lại ngay các hạt nhỏ rơi vãi (dùng đũa thuỷ tinh gạt các hạt thuỷ ngân vào các mảnh giấy cứng). Nếu có nhiều hạt nhỏ rơi xuống khe bàn thì cần phải rắc một ít bột lưu huỳnh vào đó. Không được lấy thuỷ ngân bằng tay.

– Phải hạn chế, tránh thở phải hơi brom, khí clo và khí nitơ peoxit; không để luồng hơi brom, khí clo, nitơ peoxit vào mắt hoặc brom lỏng dây ra tay.

b. Thí nghiệm với các chất dễ ăn da và làm bỏng

Có nhiều chất dễ ăn da và làm bỏng như axit đặc, kiềm đặc, kim loại kiềm, photpho trắng, brom, phenol,…

Khi sử dụng các chất trên phải giữ gìn không để dây ra tay, người và quần áo, đặc biệt là mắt. Nên dùng kính che mắt khi cần phải quan sát thật gần.

Không đựng axit đặc vào các bình quá to; khi rót, khi đổ không nên nâng bình quá cao so với mặt bàn.

Khi pha loãng axit sunfuric cần phải đổ axit vào nước mà không được làm ngược lại, phải rót chậm từng lượng nhỏ và khuấy đều.

Khi đun nóng dung dịch các chất dễ ăn da, làm bỏng phải tuyệt đối tuân theo quy tắc đun nóng hoá chất trong ống nghiệm (hướng miệng ống nghiệm về phía không có người).

c. Thí nghiệm với các chất dễ bắt lửa

Các chất dễ cháy như rượu cồn, dầu hoả, xăng, ete, benzen, axeton,… rất dễ gây ra các tai nạn cháy nên phải cẩn thận khi làm thí nghiệm với các chất đó.

– Nên dùng những lượng nhỏ các chất dễ bắt lửa, không để những bình lớn đựng các chất đó ra bàn thí nghiệm. Phải để xa lửa khi rót các dung dịch dễ cháy. Không để gần lửa và không đựng các chất đó trong bình có thành lọ mỏng hay rạn nứt và không có nút kín.

– Khi phải đun nóng các chất dễ cháy, không được đun trực tiếp mà phải đun cách thuỷ.

– Khi sử dụng đèn cồn, không nên để bầu đựng cồn gần cạn (vì khi cồn chỉ còn 1/4 của bầu thì có thể nổ gây ra tai nạn). Khi rót thêm cồn vào đèn phải tắt đèn trước và dùng phễu (hình 1.12). Không châm lửa đèn cồn bằng cách chúc ngọn đèn nọ vào ngọn đèn kia mà phải dùng đóm.

d. Thí nghiệm với các chất dễ nổ

Các chất dễ nổ ở phòng thí nghiệm thường là các muối clorat, nitrat. Khi làm thí nghiệm với các chất đó, cần thực hiện những yêu cầu sau đây:

– Tránh đập và va chạm vào các chất dễ nổ. Không để các chất dễ nổ gần lửa.

– Khi pha trộn các hỗn hợp nổ cần hết sức thận trọng, dùng đúng liều lượng đã quy định. Không tự động thí nghiệm một cách liều lĩnh nếu chưa nắm vững kĩ thuật và thiếu phương tiện bảo hiểm. Chẳng hạn đập hỗn hợp nổ kali clorat và lưu huỳnh, đốt hỗn hợp nổ của etilen hoặc axetilen
với oxi,…

– Tuyệt đối không cho học sinh làm những thí nghiệm quá nguy hiểm như đập hỗn hợp kali clorat và photpho khi thiếu những điều kiện bảo đảm thật đầy đủ.

– Trước khi đốt cháy một chất khí nào, hiđro chẳng hạn, phải thử thật kĩ xem chất đó đã nguyên chất chưa, vì các khí cháy được, khi trộn lẫn với không khí, thường tạo thành hỗn hợp nổ.

– Không được vứt natri, kali với lượng lớn vào chậu nước, vào bể rửa, vì dễ gây tai nạn nổ.

2. Cách cứu chữa khi gặp tai nạn và những phương pháp cấp cứu đầu tiên

a. Khi bị thương

Khi bị đứt tay chảy máu nhẹ (rớm máu hoặc chảy máu chậm), dùng bông thấm máu rồi dùng bông bôi thuốc sát trùng (cồn 90°, thuốc tím loãng, cồn iot, thuốc đỏ,…). Có thể dùng dung dịch sắt (III) clorua để cầm máu. Sau đó băng lại.

Nếu vết thương làm rách động mạch, máu bị phun ra mạnh, phải gọi ngay cán bộ y tế đến làm ga rô. Trong khi chờ đợi, dùng dây cao su hay khăn mặt nhỏ buộc chặt ngay phía trên vết thương. Cần giữ vết thương khỏi bị nhiễm trùng bằng cách đắp bông sạch lên vết thương rồi băng kín.

b. Khi bị bỏng

Nếu bị bỏng bởi vật nóng cần đắp ngay bông có tẩm dung dịch 1% thuốc tím vào vết bỏng, nếu bỏng nặng thì dùng dung dịch thuốc tím đặc hơn. Sau đó bôi vadơlin lên và băng vết bỏng lại. Có axit picric hoặc tananh 3% bôi lên vết bỏng càng tốt. Nếu có những vết phồng trên vết bỏng thì không được làm vỡ vết phồng đó.

Nếu bị bỏng vì axit đặc, nhất là axit sunfuric đặc, thì phải dội nước rửa ngay nhiều lần, nếu có vòi nước thì cho chảy mạnh vào vết bỏng 3 – 5 phút, sau đó rửa bằng dung dịch 10% natri hiđrocacbonat, không được rửa bằng xà phòng.

Bị bỏng vì kiềm đặc thì lúc đầu chữa như bị bỏng axit, sau đó rửa bằng dung dịch loãng axit axetic 5% hay giấm.

Nếu bị axit bắn vào mắt, phải nhanh chóng dùng bình cầu tia phun mạnh vào mắt, rồi rửa lại bằng dung dịch 3% NaHCO3. Nếu là kiềm thì rửa bằng dung dịch 2% axit boric.

Khi bị bỏng vì photpho thì phải nhúng ngay vết thương vào dung dịch thuốc tím hay dung dịch 10% bạc nitơrat, hoặc dung dịch 5% đồng sunfat. Sau đó đến trạm y tế để lấy hết photpho còn lẫn trong vết bỏng. Tuyệt đối không bôi vadơlin hay thuốc mỡ lên vết bỏng vì photpho hoà tan trong các chất này.

Nếu bị bỏng vì brom lỏng thì phải giội nước rửa ngay, rồi rửa lại vết bỏng bằng dung dịch amoniac sau đó rửa bằng dung dịch 5% natri thiosunfat Na2S2O3, rồi bôi vadơlin, băng lại và đến trạm y tế để cứu chữa tiếp tục.

c. Khi bị ngộ độc

Ăn hoặc uống phải chất độc: Nếu ăn phải asen và hợp chất của asen, phải làm cho bệnh nhân nôn ra (chẳng hạn bằng cách móc tay vào tiểu thiệt). Cho uống than hoạt tính hoặc cứ 10 phút thì cho uống một thìa con dung dịch sắt (II) sunfat (1 phần FeSO4 và 3 phần nước). Tốt hơn thì dùng hỗn hợp dung dịch sắt sunfat nói trên với huyền phù của magie oxit pha trong nước (20g MgO trong 300ml nước). Sau đó cấp tốc đưa bệnh nhân vào bệnh viện để rửa ruột.

Nếu ăn phải hợp chất của thuỷ ngân, cần làm cho bệnh nhân nôn ra, cho uống sữa có pha lòng trắng trứng, sau đó cho bệnh nhân uống thêm than hoạt tính.

Nếu bị ngộ độc vì photpho trắng, cho uống thuốc nôn (dung dịch loãng đồng sunfat: 0,5g đồng sunfat trong 1 – 1,5 lít nước). Cho uống nước đá. Không được uống sữa và lòng trắng trứng hoặc dầu mỡ vì các chất này hoà tan photpho.

Nếu bị ngộ độc vì axit xianhiđric và muối xianua (có trong lá cây trúc đào và một số củ sắn làm người ta bị say) thì làm cho bệnh nhân nôn ra, uống dung dịch 1% natri thiosunfat Na2S2O3 hoặc dung dịch thuốc tím rất loãng 0,025% đã được kiềm hoá bằng natri hiđrocacbonat, làm hô hấp nhân tạo, dùng nước lạnh xoa gáy. Cho uống dung dịch đặc glucozơ hoặc đường.

Hít phải chất độc nhiều: Khi bị ngộ độc vì các chất khí độc, cần đình chỉ thí nghiệm, mở ngay cửa và cửa sổ, đưa ngay bệnh nhân ra ngoài chỗ thoáng gió, đưa các bình có chứa hoặc sinh ra khí độc vào tủ hốt hoặc đưa ra ngoài phòng. Cần cởi thắt lưng, xoa mặt và đầu người bị ngộ độc bằng nước lã, cho ngửi dung dịch amoniac.

Nếu bị ngộ độc vì clo, brom: cần đưa bệnh nhân ra chỗ thoáng, cho thở bằng oxi nguyên chất. Nếu cần thiết thì làm hô hấp nhân tạo.

Nếu bị ngộ độc vì hiđro sunfua: cần cho bệnh nhân thở ở chỗ thoáng, nếu cần thì cho thở bằng oxi.

Nếu bị ngộ độc amoniac: Khi hít phải quá nhiều amoniac, cần cho bệnh nhân hít hơi nước nóng. Sau đó cho uống nước chanh hay giấm.

d. Tủ thuốc cấp cứu của phòng thí nghiệm

Để cấp cứu khi bị thương hay bị hỏng, phòng thí nghiệm cần có tủ thuốc đựng sẵn một số thuốc thông dụng sau đây:

1) Cồn iot 5%

2) Dung dịch 3% natri bicacbonat (natri hidro cacbonat, NaHCO3)

3) Dung dịch 5% amoniac (5% NH3)

4) Dung dịch 2% axit boric (2% H3BO3)

5) Dung dịch loãng (2 – 3%) thuốc tím (đựng trong lọ màu nâu)

6) Dung dịch sắt (III) clorua đặc

7) Dung dịch 3% axit axetic

8) Dung dịch 5% đồng sunfat

9) Các loại bông băng, gạc đã được tẩy trùng.

Hoahocngaynay.com

<

p style=”text-align: justify; line-height: 150%; background: none repeat scroll 0% 0% white;”>Nguồn Nangluctuhoc.edu.vn

Chia sẻ:

QUẢNG CÁO

Tin liên quan:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *