Tác hại của hóa chất đối với cơ thể con nguời

QUẢNG CÁO

Hàng này, chúng ta phải tiếp xúc với nhiều loại hóa chất. Từ những người làm trong phòng thí nghiệm đến những người không làm công tác chuyên môn. Để hiểu thêm về tác hại của các loại hóa chất đối với cơ thể,  Hóa Học Ngày Nay xin giới thiệu với các bạn bài viết sau nhằm giúp chúng ta hiểu rõ hơn về các nguy cơ ảnh hưởng của hóa chất. Theo tính chất tác động của hóa chất trên cơ thể con người có thể phân loại theo các nhóm sau đây:

  • Kích thích gây khó chịu.

– Gây dị ứng.

– Gây ngạt.

– Gây mê và gây tê.

– Tác động đến hệ thống các cơ quan chức năng.

– Gây ung thư.

– Hư bào thai.

– Ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai (đột biến gien).

– Bệnh bụi phổi.

1- Kích thích

Tác động kích thích của hóa chất ở đây có nghĩa là làm cho tình trạng phần cơ thểtiếp xúc với hóa chất bị xấu đi. Các phần của cơ thểthường bị tác động này là da, mắt và đường hô hấp.

a) Kích thích đối với da

Khơi một hóa chất tiếp xúc với da, có thể chúng sẽ làm biến đổi các lớp bảo vệ khơiến cho da bị khô, xù xì và xót. Tình trạng này được gọi là viêm da (hình 5). Có rất nhiều hóa chất gây viêm da.

Nhiễm hóa chất gây viêm da

b) Kích thích đối với mắt

Hóa chất nhiễm vào mắt có thể gây tác động từ khó chịu nhẹ, tạm thời tới thưng tật lâu dài. Mức độ thưng tật phụ thuộc vào lượng, độc tính của hóa chất và c các biện pháp cấp cứu. Các chất gây kích thích đối với mắt thường là: axít, kiềm và các dung môi (hình 6).

Nhiều hóa chất có thể gây kích thích đối với mắt

c) Kích thích đối với đường hô hấp

Các chất hòa tan như: amoniac, fomandehơit, sunfur, axít và kiềm ở dạng mù sưng, khí hoặc hơi khơi tiếp xúc với đường hô hấp trên (mũi và họng) sẽ gây ra cảm giác bỏng rát; chúng được hấp thu vì sự ẩm ướt của đường mũi họng. Cố gắng tránh hít phải hơi hóa chất khơi làm việc, đặc biệt khơi dùng các dụng cụ như bình phun, xịt (hình 7). Một vài chất kích thích như sunfua đioxít, clo và bụi than… tác động dọc theo đường thở gây ra viêm phế quản, đôi khơi gây tổn thương trầm trọng đường thở và mô phổi.
Các hóa chất ít tan trong nước sẽ xâm nhập vào vùng trao đổi khí. Các chất này ít xuất hiện ở nơi làm việc song những tổn thương mà chúng gây ra đối với người lao động thì rất nghơiêm trọng. Phản ứng của hóa chất với mô phổi gây ra phù phổi (dịch trong phổi) và có thể xuất hiện ngay lập tức hoặc sau vài giờ. Triệu chứng bắt đầu với việc rất khó chịu trong phổi, tiếp theo là ho, khó thở, xanh tím và khạc nhiều đờm. Các hóa chất này thường là: Đioxít nit, ozon, photgen…

Khi phun xì cần chú ý tránh hít phải hơi độc

2- Dị ứng

Dị ứng có thể xảy ra khơi cơ thể tiếp xúc trực tiếp với hóa chất. Người lao động khơi mới tiếp xúc có thể không bị dị ứng, nhưng nếu tiếp xúc thường xuyên, ngay cả với lượng nhỏ thì có thể thường sẽ phản ứng và da hoặc đường hô hấp sẽ bị dị ứng.

a) Dị ứng da

Da bị dị ứng có tình trạng giống như viêm da (mụn nhỏ hoặc là phỏng nước). hiện tượng này có thể không xuất hiện ở nơi tiếp xúc mà ở một nơi nào đó trên cơ thể. Những chất gây dị ứng thường gặp là nhựa epoxy, thuốc nhuộm azo, dẫn xuất nhựa than đá, axít cromic…

b) Dị ứng đường hô hấp

Đường hô hấp nhạy cm là căn nguyên của bệnh hen nghề nghiệp. Những triệu chứng của căn bệnh này là ho nhiều về đêm, khó thở, thở khò khè và ngắn. Các hóa chất gây tác hại này là: Toluen đisoxianat, fomaldehơit…
ghi nhớ
Tiếp xúc nhiều với hóa chất có thể dẫn đến dị ứng.

3. Gây ngạt

Sự ngạt thở là biểu hiện của việc đưa không đủ ôxy vào các tổ chức của cơ thể. Có hai dạng: ngạt thở đn thuần và ngạt thở hóa học.

a) Ngạt thở đơn thuần

Chất gây ngạt đn thuần thường ở dạng khí như: CO2, CH4 (mê tan), N2, C2H6 (ê tan), H2 …; khơi lượng các khí này tăng sẽ làm giảm tỷ lệ ôxy trong không khí và gây ngạt thở; nếu không được cấp cứu kịp thời có thể sẽ dẫn đến tử vong. Bình thường không khí chứa khoảng 21% ôxy, nếu nồng độ ôxy hạ xuống dưới 17% thì không đủ để đáp ứng nhu cầu của các tổ chức cơ thểvà xuất hiện các triệu chứng hoa mắt, chóng mặt, buồn nôn và rối loạn hành vi. Tình trạng này có thể xảy ra ở nơi làm việc chật hẹp, ở dưới các giếng và trong các hầm lò (hình 8).

Môi trường làm việc chật hẹp, thiếu ô xy có thể dẫn tới tử vong…

b) Ngạt thở hóa học

Chất gây ngạt hóa học ngăn cn máu vận chuyển ôxy tới các tổ chức của cơ thể. Một trong những chất này là ôxít cácbon (gây cacboxyhemoglobin). Chỉ cần 0,05% ôxít cácbon trong không khí là đã có thể giảm đáng kể khả năng mang ôxy của máu tới các mô của cơ thể. Các chất khác như hyđro xianua, hoặc hyđro sunfua…cản trở khả năng tiếp nhận ôxy của tế bào, ngay c khơi máu giàu ôxy.

4- Gây mê và gây tê

Tiếp xúc với nồng độ cao một trong các hóa chất như: etanol, propanol (ancol béo), axeton và metyl-etyxeton (xeton béo), axetylen, hyđrocacbon, etyl và isopropyl ete… có thể làm suy yếu hệ thần kinh trung ưng, gây ngất thậm chí dẫn đến tử vong. Những chất này gây ảnh hưởng tương tự như say rượu. Khơi tiếp xúc thường xuyên với các hóa chất này ở nồng độ thấp một số người bị nghiện chúng.

5- Gây tác hại tới hệ thống các cơ quan của cơ thể

Cơ thểcon người được tạo nên bởi nhiều hệ cơ quan. nhiễm độc hệ thống liên quan tới tác động của hóa chất tới một hoặc nhiều cơ quan trong cơ thể, làm ảnh hưởng tới toàn bộ cơ thể. ảnh hưởng này không tập trung ở một điểm nào hoặc vùng nào của cơ thể.
Một trong những chức năng của gan là làm sạch chất độc có trong máu bằng cách biến đổi chúng thành chất không độc và những chất có thể hòa tan trong nước trước khơi bài tiết ra ngoài (hình 9). Tuy nhiên, một số hóa chất lại gây tổn thương cho gan. Tùy thuộc vào loại, liều lượng và thời gian tiếp xúc mà có thể dẫn tới hủy hoại mô gan, để lại hậu quả xơ gan và giảm chức năng gan. Các dung môi: alcol, cacbon tetraclorua, tricloetylen, clorofom có thể gây tổn thương gan, dẫn đến viêm gan với các triệu chứng vàng da, vàng mắt.

Thận là một phần của hệ tiết niệu, chức năng của hệ tiết niệu là bài tiết (đào thơi) các chất cặn do cơ thể sinh ra, duy trì sự cân bằng của nước và muối, kiểm soát và duy trì nồng độ axít trong máu (hình 10). Các hóa chất cản trở thận đào thơi chất độc gồm etylen glycol, cacbon đisunphua, cacbon tetraclorua, cacbon đisulphua. Các hợp chất khác như cađmi, chì, nhựa thông, etanol, toluen, xylen… sẽ làm hỏng dần chức năng của thận.

– Tiếp xúc lâu dài với các dung môi sẽ dẫn tới các triệu chứng mệt mỏi, khó ngủ, đau đầu và buồn nôn; nặng hơn sẽ là rối loạn vận động, liệt và suy tri giác.
– Tiếp xúc với hecxan, mangan và chì sẽ làm tổn thương hệ thần kinh ngoại vi, để lại hậu quả liệt rủ cổ tay.
– Tiếp xúc với các hợp chất có photphat hữu cơ như parathơion có thể gây suy giảm hệ thần kinh; còn với cacbon đisunphua có thể dẫn đến rối loạn tâm thần…
Một số hóa chất nguy hiểm có thể tác động tới hệ sinh dục, làm mất khả năng sinh đẻ ở đàn ông và sẩy thai ở phụ nữ đang mang thai. Các chất như: etylen đibromua, khí gây mê, cacbon đisunphua, clopren, benzen, chì, các dung môi hữu cơ… có thể làm giảm khả năng sinh sn ở nam giới. Tiếp xúc với thuốc gây mê thể khí, glutaranđehơit, clopren, chì, các dung môi hữu cơ, cacbon đisunphua và vinyl clorua có thể sẩy thai.

6- Ung thư

Khơi tiếp xúc lâu dài với một số hóa chất có thể tạo sự phát triển tự do của tế bào, dẫn đến khối u – ung thư. Những khối u này có thể xuất hiện sau nhiều năm tiếp xúc với hóa chất. Giai đoạn này có phạm vi từ 4 – 40 năm. Vị trí ung thư nghề nghiệp trong cơ thể cũng rất khác nhau và thường không chỉ giới hạn ở vùng tiếp xúc. Các chất như asen, amiăng, crom, niken, bis-clometyl ete (BCME)… có thể gây ung thư phổi. Bụi gỗ và bụi da, niken crom, dầu isopropyl có thể gây ung thư mũi và xoang. Ung thư bàng quang do tiếp xúc với benziđin,
2-naphtylamin và bụi da. Ung thư da do tiếp xúc với asen, sản phẩm dầu mỏ và nhựa than. Ung thư gan có thể do tiếp xúc vinyl clorua đơn thể, trong khi ung thư tủy xương là do benzen.

7- Hư thai (quái thai)

Dị tật bẩm sinh có thể là hậu quả của việc tiếp xúc với các hóa chất gây cản trở quá trình phát triển bình thường của bào thai. Trong thời gian 3 tháng đầu của thời kỳ mang thai, thai nhi dễ bị ảnh hưởng nhất bởi các tổ chứcơ quan trọng của não, tim, tay và chân đang hình thành. Các nghơiên cứu nối tiếp nhau đã chỉ ra rằng sự có mặt của hóa chất như thủy ngân, khí gây mê, các dung môi hữu cơ có thể cản trở quá trình bình thường của việc phân chơia tế bào, gây biến dạng bào thai.

8- Ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai

Một số hóa chất tác động đến cơ thể người gây đột biến gen tạo những biến đổi không mong muốn trong các thế hệ tương lai. Thông tin về vấn đề này rất hơiếm. Tuy nhiên, theokết quả nghiên cứu ở các phòng thí nghiệm cho thấy 80 – 85% các chất gây ung thư có thể tác động đến gen.

9- Bệnh bụi phổi

Bệnh bụi phổi hay bệnh ho dị ứng do hít nhiều bụi, là tình trạng lắng đọng các hạt bụi nhỏ ở vùng trao đổi khí của phổi và phản ứng của các mô tảrước sự hiện diện của bụi. Phát hiện những thay đổi của phổi ở giai đoạn sớm là vô cùng khó khăn. Với bệnh bụi phổi thì khả năng hấp thụ ôxy sẽ giảm và bệnh nhân sẽ có hiện tượng thở ngắn, gấp trong các hoạt động phơi dùng đến nhiều sức lực. Bệnh này cho tới nay chưa thể chữa khỏi hoàn toàn. Các chất gây bệnh bụi phổi thường là: silic tinh thể, amiang, và berili.

Hoahocngaynay.com

Chia sẻ:

QUẢNG CÁO

Tin liên quan:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *