Aspartam (tên khác là L-aspartyl-L-phenylalanine methyl ester) là một este methyl cấu tạo từ 2 acid amin là aspartic acid và phenylalanine. Trong tự nhiên, aspartic acid và phenylalanine được tìm thấy trong thực phẩm có chứa protein, như thịt, ngũ cốc và các sản phẩm từ sữa. Este methyl cũng được tìm thấy trong hoa quả và rau.Aspartam có độ ngọt cao, khoảng 180 đến 200 lần ngọt hơn đường mía. Vị ngọt của aspartam khá giống đường. Vị ngọt này được cảm nhận chậm hơn và kéo dài lâu hơn so với đường.Aspartam có năng lượng khoảng 4 Kcal/g (17 KJ/g). Tuy nhiên, chỉ cần một lượng rất nhỏ aspartam đã tạo ra độ ngọt cần thiết. Do đó năng lượng chúng ta đưa vào cơ thể khi dùng thực phẩm tạo ngọt bằng aspartam sẽ không đáng kể.
Đa số người tiêu dùng có nhận xét là aspartam không để lại dư vị khó chịu, tuy nhiên một số người nhạy cảm cho rằng đường này để lại trên lưỡi một hậu vị không ngon. Điều này có thể khắc phục bằng cách trộn aspartam với các loại đường khác (như acesulfame K hay saccharine). Aspartam rất được ưa chuộng trong việc sử dụng để thay thế đường trong các sản phẩm thực phẩm dành cho người ăn kiêng.
Các tranh cãi hiện nay về aspartam
Khi vào cơ thể, bản thân aspartam không hấp thụ vào máu mà tan ra trong ruột thành ba chất: aspartic acid (40%), phenylalanin (50%) và methanol (10%). Đây là cơ sở của nhiều ý kiến về tác động bất lợi cho sức khỏe con người từ aspartam.
Lo ngại về độc tính của methanol:
Gọi A là quan điểm của những người ủng hộ việc sử dụng aspartam; B là quan điểm của những người chống lại việc sử dụng aspartam.
A: Methanol có thể tìm thấy trong tự nhiên:
– Trái cây, nước trái cây (hàm lượng có thể đạt tới 140mg/l).
– Nước giải khát có cồn (hàm lượng có thể đạt tới 1,5g/l).
Con người vẫn tiêu thụ methanol từ những nguồn này mà không bị ảnh hưởng gì về sức khỏe. Do đó, việc tiêu thụ methanol sinh ra từ aspartam cũng an toàn.
B: bản thân methanol là một chất có độc tính thấp. Sau khi được đưa vào cơ thể, methanol được ôxy hóa tạo nên formaldehyde, chất này lại tiếp tục được ôxy hóa tạo nên acid formic (hoặc formate, tùy theo độ pH). Acid formic có độc tính rất cao. Chính acid formic là nguyên nhân gây nên tình trạng toan chuyển hóa (nhiễm acid) và mù lòa, những tổn thương đặc trưng của nhiễm độc methanol.
Trong nước giải khát có cồn có ethanol là yếu tố ngăn chặn sự chuyển hóa methanol thành formaldehyde gây độc, nên việc so sánh giữa methanol có nguồn gốc từ aspartam và methanol có nguồn gốc từ đồ uống có cồn là không phù hợp.
Trong trái cây, dù chưa có bằng chứng rõ ràng về sự hiện diện của một hay một số chất nào đó có chức năng ngăn chặn sự hình thành độc chất axit formic từ methanol có trong trái cây. Tuy nhiên, có những tính toán cho thấy phải có sự hiện diện của những chất này. Ví dụ:
Theo một số nghiên cứu thì sự tiếp xúc kéo dài tại nơi làm việc với môi trường có nồng độ khí methanol > 260 mg/m3 (260 ppm) có thể gây ra ngộ độc methanol mãn tính. Số lượng methanol được hấp thu hàng tuần khi tiếp xúc với môi trường này (cho rằng một người lớn nặng 70kg, thở 6,67m3 khí trong 8 tiếng làm việc) là:
(260 mg/m3 x 6,67 m3/ngày x 5 ngày công lao động x 60% tỷ lệ hấp thu) / 70kg = 75 mg/kg methanol hàng tuần.
Tuy nhiên, nếu một người nặng 70kg thích uống nước cam (trong 1kg cam tươi ước tính có 4 tới 420 mg methanol, khi để lâu hay vắt nước uống thì lượng methanol tăng lên. Trong ví dụ này lấy 1kg cam vắt lấy nước có 500mg methanol), uống một lượng là 1,5 kg cam một ngày thì lượng methanol hấp thu trong một tuần của người đó là:
(500 mg methanol x 1,5 kg cam x 7 ngày)/70 kg = 74 mg/kg methanol hàng tuần.
Chưa kể nếu một người thích ăn hay uống cà chua thì nguy cơ còn cao hơn vì trong cà chua có chứa lượng methanol cao hơn gấp 5 lần so với cam.
Như vậy, những ai uống nhiều nước cam hay cà chua hàng ngày sẽ phải có những biểu hiện ngộ độc methanol mãn tính. Nhưng việc ngộ độc không xãy ra. Do đó, trong các loại trái cây này phải có các chất có tính ngăn chặn sự chuyển hóa của methanol để hình thành độc chất. Như vậy, không thể nói rằng methanol từ aspartam giống methanol của trái cây.
Lo ngại về lượng axit aspartic và phenylalanine khi ăn sản phẩm có chứa aspartam:
A: Phenylalanine là một axít amin cần thiết mà cơ thể không tự tổng hợp được, do đó phải thu nạp từ thức ăn bên ngoài. Người lớn cần ít nhất 1 – 2g L-phenylalanine mỗi ngày, trẻ em cần nhiều hơn.
B: Phenylalanine cũng là một chất độc thần kinh. Quá nhiều phenylalanine gây động kinh, thai gây chậm phát triển trí óc, mất ngủ… Chính phenylalanine tạo ra bệnh phenylketonuria (PKU), là loại bệnh mà trong máu có quá nhiều axít amin phenylalanine, làm chậm phát triển trí tuệ nghiêm trọng, và làm tổn hại đến hệ thần kinh. Mặt khác, con người hấp thu các axít amin cần thiết từ thiên nhiên dưới dạng kết hợp với nhiều chất khác chứ không phải chỉ riêng một chất cô lập.
A: Aspatic acid được hấp thu qua ruột và đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển hóa năng lượng và nitrogen trong ty thể (nơi xảy ra quá trình hô hấp tế bào chuyển ôxy và chất dinh dưỡng thành năng lượng).
B: nếu dư thừa, axit aspartic có thể gây ra rối loạn nội tiết (hormone) và các vấn đề về thị lực. Aspartic acid là một chất kích thích thần kinh, ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh trung ương, gây nên các chứng: nhức đầu, buồn nôn, đau bụng, mệt mỏi, rối loạn giấc ngủ, vấn đề về thị lực, trầm cảm, và bệnh suyễn, động kinh…
Một số nghiên cứu cho thấy aspartam có ảnh hưởng thần kinh và não bộ, gây bệnh động kinh và khối u não
B: Viện Ramazzini tại Ý đã công bố hai báo cáo từ năm 2005 là đã tìm thấy sự gia tăng đáng kể bệnh ung thư hạch và bệnh bạch cầu ở chuột có chế độ ăn uống có chứa aspartam. Ngoài ra, có một số nghiên cứu độc lập khác cũng chứng tỏ aspartam có hại cho não và thần kinh.
A: các cơ quan an toàn thực phẩm trên toàn thế giới như Ủy ban Khoa học Âu châu về Thực phẩm (EFSA), Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ (USFDA), Cơ quan Kiểm tra Thực phẩm Canada (CFIA ), Cơ quan Tiêu chuẩn Thực phẩm Austraulia – NewZealand (FSANZ )… đã đánh giá nghiên cứu trên và nhiều nghiên cứu khác. Tuy nhiên, qua xem xét, đã không tìm thấy bằng chứng khoa học đáng tin cậy về các tác hại này.
Ngoài ra, đường aspartame và các sản phẩm của nó đã được phân tích, điều tra một cách sâu rộng trong hơn 20 năm tại hơn 90 nước trên thế giới, bao gồm nghiên cứu trên động vật thí nghiệm, nghiên cứu lâm sàng, nghiên cứu dịch tễ học và kiểm tra hậu mãi (Post Marketing Surveillance – PMS). Aspartam được kết luận là an toàn cho con người.
Chung cuộc của những tranh cãi này
Ngoài các vấn đề đã nêu trên, còn có rất nhiều tranh cãi khác giữa A và B: aspartam gây nguy hiểm cho bệnh nhân tiểu đường, aspartam gây dị ứng, lượng methanol trong máu tăng khi tiêu thụ aspartam… Cho tới ngày ngay, các tranh cãi giữa A và B vẫn tiếp tục. Bên B cho rằng luận điệu của bên A là những chiêu PR (quan hệ công chúng) của nhà sản xuất aspartam. Bên A lại cho rằng chứng cứ của bên B thiếu sức thuyết phục, chỉ dựa vào cảm tính.
Dù sao, quan điểm của nhiều tổ chức có uy tín hiện nay ủng hộ việc sử dụng aspartam trong hạn mức cho phép, bao gồm Tổ chức Nông lương Quốc tế (FAO), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Ủy ban Quản lý Dược-Thực phẩm Mỹ (FDA)…. Liều dùng cho phép của aspartame mỗi ngày (ADI) là nhỏ hơn hoặc bằng 40 mg/kg thể trọng. Đây là một trong những hàm lượng cho phép sử dụng cao nhất trong số các phụ gia thực phẩm. Tuy nhiên, tháng 4 năm 2009, FESA cũng tổ chức một hội nghị gồm các chuyên gia có những kiến thức chuyên sâu về aspartam. Các chuyên gia này xem xét lại tất cả những nghiên cứu và dữ liệu về aspartam và những ảnh hưởng đến sức khỏe (nếu có) của nó. Dự kiến, đầu năm 2010, hội đồng này sẽ thông báo kết quả.
Tại Việt Nam, aspartam được phép sử dụng cho các sản phẩm như đồ uống, kẹo, bia, rượu với mục đích làm tạo ngọt, điều vị với ADI cũng từ 0 – 40 mg/kg, giống như kiến nghị của các tổ chức uy tín trên thế giới. Trên những sản phẩm có sử dụng aspartam sẽ phải ghi tên “aspartam” hoặc “aspartame” hay ghi mã số “951”.