1.Đá tự nhiên (natural gemstone)
Rubi
Đá quý tự nhiên được hình thành do các quá trình tự nhiên (chủ yếu là quá trình địa chất) diễn ra trong lòng Trái Đất hoặc trên bề mặt Trái Đất và không chịu bất kỳ tác động nào của con người trừ việc gia công chế tác.
Đá quý tự nhiên đa số đều là các khoáng vật (kim cương), corindon, beryl, spinel…), một phần là các tập hợp khoáng vật hoặc các loại đá (đá hoa, đá vôi diorit, ngọc bích, obsidian, moldavit, gỗ hoá đá…) hoặc các vật liệu tự nhiên khác (san hô, ngọc trai, hổ phách, ngà voi…). Chúng có thể có nguồn gốc vô cơ hoặc hữu cơ.
Trong các lĩnh vực có sử dụng đá quý (trang sức, trang trí, mỹ nghệ, điệu khắc và sưu tập) đến nay người ta đã thống kê được hơn 100 khoáng vật khác nhau. Một loại khoáng vật (species) có thể có nhiều biến loại (variety) khác nhau, tuỳ thuộc vào thành phần hoá học, màu sắc, hình dạng tinh thể…Ví dụ, ruby (màu đỏ), saphir (màu lam) là các biến loại khác nhau của cùng một khoáng vật corindon; emerald (màu lục), aquamarin (màu lơ), morganit (màu hồng), goshenit (không màu)… là các biến loại khác nhau của cùng một khoáng vật đá quý beryl. Số vật liêu có nguồn gốc hữu cơ được dùng làm đá quý không nhiều, chỉ hơn 10.
Ngoài các tên gọi khoa học (tên gọi khoáng vật học), trong lĩnh vực đá quý người ta còn sử dụng các tên gọi thương trường. Cho đến nay người ta đã thống kê được hơn 200 tên gọi thương trường khác nhau. Các tên gọi này đương nhiên không thể có trong các từ điển khoáng vật học.
Vì một số đá quý tự nhiên rất hiếm hoặc rất đắt tiền nên từ lâu con người đã tìm cách thay thế chúng bằng các đá quý tự nhiên khác rẻ tiền hơn hoặc bằng các sản phẩm do mình tự tạo ra.. Đó là các đá tổng hợp hoặc các sản phẩm nhân tạo.
2.Đá tổng hợp (Synthetic stones)
Đá tổng hợp là các sản phẩm kết tinh hoặc tái kết tinh, được con người chế tạo mới hoàn toàn hoặc một phần. Các tính chất vật lý, hoá học và cấu trúc tinh thể của chúng về cơ bản tương tự các sản phẩm gặp trong tự nhiên. Cho đến nay, bằng các phương pháp khác nhau, con người đã tổng hợp được một số loại đá là kim cương, corindon (ruby, saphir), sponel, emerald, elexandrit, thạch anh, opal, rutil, lapis lazuli, moisanit…Các loại đá khác cho đến nay chưa được con người tổng hợp, hoặc là vì lý do công nghệ tổng hợp phức tạp, hoặc vì không có hiệu quả kinh tế.
3.Sản phẩm nhân tạo (Artificial products)
Sản phẩm nhân tạo là các vật liệu (chủ yếu là kết tinh) hoàn toàn do con người chế táo ra và không có các vật liệu tương tự trong tự nhiên. Có thể kê ra các sản phẩm nhân tạo phổ biến nhất như sau: oxyt zirconi lập phương (còn có tên gọi CZ, phianit hoặc djevalit) dùng để thay thế kim cương), GGG (Granat Gadolini Gali – Gadollinium Gallium Garnet), YAG (Granat Nhôm Itri – Ytrium Aluminium Garnet), moisanit (moissanite)…Hầu hết các sản phẩm nhân tạo dùng để thay thế kim cương
YAG Hồng Nhẫn đính đá CZ
4.Đá xử lý (Treated stones)
Ruby trước và sau xử lý
Là các đá tự nhiên được con người xử lý bằng các phương pháp khác nhau nhằm mục đích nâng cấp chất lượng của chúng. Những phương pháp xử lý thường gặp nhất là xử lý nhiệt, chiếu xạ, tẩy và nhuộm màu.
5.Đá thay thế (Imitations, substitules)
Là những vật liệu có đặc điểm bên ngoài (chủ yếu là màu sắc và độ trong suốt) tương tự đá quý tự nhiên, nhưng lại có thành phần hoá học và (hoặc) các tính chất vật lý và (hoặc) cấu trúc bên trong khác hẳn chúng.
Đá thay thế có thể là đá tự nhiên, đá tổng hợp, sản phẩm nhân tạo hoặc đá xử lý. Các đá thay thế của nhưng đá quý tự nhiên thường gặp là:
– Kim cương
Để thay thế kim cương người ta có thể sử dụng các đá tự nhiên như corindon không màu, zircon, topaz, thạch anh…, hoặc các đá tổng hợp như spinel, saphir…, hoặc các sản phẩm nhân tạo như CZ, GGG, YAG, niobatliti…
– Corindon
+ Ruby
Ngoài các sản phẩm tổng hợp do các hãng khác nhau sản xuất, để thay thế ruby người ta có thể dùng granat (pyrop, almandin), spinel đỏ, thạch anh hồng, topaz hồng, turmalin hồng, thuỷ tinh đỏ…
+ Saphir
Ngoài các đá tổng hợp (saphir lam tổng hợp, spinel lam tổng hợp, thuỷ tinh màu lam…) còn có thể dùng các đá tự nhiên có màu lam như iolit, tanzanit, spinel, turmalin…để thay thế saphir.
– Beryl
+ Emeral
Thay thế emerald có thể là các đá tự nhiên (demantoit, jadeit, turmalin, peridot, diopsit, tsavolit…), các đá xử lý (thạch anh nhuộm màu…), emerald tổng hợp, các sản phẩm nhân tạo (YAG, CZ…), thuỷ tinh, đá ghép.
+ Aquamarin
Những vật liệu dùng để thay thế aquamarin thường gặp là spinel tổng hợp, topaz chiếu xạ, thuỷ tinh nhân tạo.
6.Đá ghép (ghép đôi, ghép ba)
Là sản phẩm được ghép một cách nhân tạo (gắn keo hoặc bằng phương pháp khác) từ hai, ba thành phần khác nhau. Các thành phần này có thể là đá quý tự nhiên, là các khoáng vật tự nhiên khác, các đá tổnghợp hoặc đá thay thế. Thông thường đá ghép đôi (doublet) gồm 2 phần, một phần có màu, còn ghép ba (triplet) gồm 3 phần và có màu tạo nên do lớp keo gắn.
ĐÁ THẬT, ĐÁ GIẢ.
Khái niệm đá thật, đá giả hoàn toàn phụ thuộc vào chủ định của con người. Đá giả là khi con người dùngmột loại này nhưng lại bán với tên gọi một loại đá khác. Đá giả có thể là đá quý tự nhiên, đá tổng hợp, đá thay thế hoặc sản phẩm nhân tạo, và ngược lại, đá thật cũng có thể là đá tổng hợp, đá thay thế hoặc sản phẩm nhân tạo với điều kiện người ta bán đúng tên của chúng.
Nhiều người cứ cho rằng đá tổng hợp, sản phẩm nhân tạo đều là đá giả và có tên gọi trên thương trường là “hàng copy”. Điều này hoàn toàn không phải như vậy.
Việc phân loại đá quý thường phải đáp ứng một mục đích nhất định của người sử dụng, nhằm thiết lập một quan hệ có hệ thống nào đó giữa các loại đá quý. Các tiêu chuẩn được chọn để phân loại đá quý như vậy rõ ràng phụ thuộc vào chủ tâm chủ người xây dựng phân loại. Không chỉ giữa các nhà khoáng vật học và các nhà kinh doanh đá quý mới có các cách phân loại đá quý khác nhau mà cả các nhà sử học, các nhà mỹ học…cũng chọn cho mình một kiểu phân loại phù hợp với mục đích của mình.
Đá Quý Emerald Nhẫn gắn đá CZ
Hoahocngaynay.com
Nguồn: Nguhanhson.com.vn