Có hay không về vấn đề môi trường ở Hồ Ba Bể?

QUẢNG CÁO

Mấy ngày gần đây, các phương tiện truyền thông liên tiếp đưa tin về thực trạng môi trường và sự bồi lắng của Hồ Ba Bể. Nguyên nhân chưa được các cơ quan liên quan kết luận, nhưng trên báo chí đã có những thông tin trái chiều về có hay không việc ô nhiễm môi trường và sự bồi lắng ở Hồ Ba Bể.

Thông tin một bên là Đài Truyền hình Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, bên kia là báo Điện tử Vnmedia thuộc Tập đoàn BCVT, Báo Dân trí thuộc Hội Khuyến học, Hội những người yêu Ba Bể gồm các nhà báo, nhà nghiên cứu môi trường, các giáo sư và đặc biệt là ý kiến của những người dân đang sống xung quanh hồ Ba Bể.             

>>> Hồ Ba Bể có nguy cơ bị biến mất

 

Thư gửi lãnh đạo Đài truyền hình Việt Nam

Ngày hôm nay (16/5), Báo điện tử VnMedia đã nhận được bức thư do Hội những người yêu Ba Bể gửi Đài truyền hình Việt Nam, đề nghị làm rõ sự việc liên quan đến bản tin thời sự tối 12/5.

Theo đó, đại diện là nhà thơ Dương Thuấn Hội – Tổng thư ký Hội những người yêu Ba bể, Chủ tịch Hội đồng hương Bắc Kạn đã yêu cầu VTV làm rõ một số nội dung liên quan đến những thông tin xung quanh việc khai thác quặng tại vùng đệm quốc  gia Ba Bể. Theo bức thư, hiện đang có cái nhìn và sự đánh giá khác nhau giữa Hội những người yêu Ba Bể và Đài Truyền hình Việt Nam về vấn đề này.

Cụ thể, Hội những người yêu Ba Bể cho biết đã có những chứng cứ cho thấy có những dấu hiệu rất rõ ràng về việc Hồ Ba Bể và các khu vực lân cận đang và có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề do sự khai thác quặng tại đây. Hậu quả là trong tương lai, hồ Ba Bể có thể bị bồi lấp, thậm chí biến mất.

Trong khi đó, Đài truyền hình Việt Nam cũng cho rằng, họ có những sở cứ để kết luận việc khai thác quặng không hề ảnh hưởng đến môi trường Hồ Ba Bể và việc khai thác này là hoàn toàn hợp pháp, được cấp phép bởi cơ quan chức năng có thẩm quyền.

Để có thông tin nhiều chiều, VnMedia sẽ gửi bức thư này đến Đài truyền hình Việt Nam và các cơ quan chức năng liên quan. VnMedia sẽ thông tin đến bạn đọc nội dung phản hồi và những thông tin tiếp theo của vụ việc.

Chiều trên hồ Ba Bể

Chiều trên hồ Ba Bể

Trước đó, chiều 26/4, Hội những người yêu Ba Bể đã tổ chức một buổi gặp gỡ báo chí để thông báo về những gì mà Hội đã thu thập được trong cuộc khảo sát các khu vực Hồ và xung quanh Hồ. Theo đó, Hội cho rằng, việc khai thác quặng tại khu vực này đã đang đe doạ đến môi trường và gây nguy cơ bồi lấp hoàn toàn hồ Ba Bể trong tương lai. Đoàn khảo sát này bao gồm GSTS Phạm Vĩnh Cư – Chủ tịch Hội những người yêu Ba Bể; Nhà thơ Dương Thuấn – Tổng thư ký Hội những người yêu Ba Bể; GSTS Chu Hảo – Nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học & Công nghệ – Tổng biên tập NXB Tri Thức; GSTS Đặng Hùng Võ – Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên & Môi trường; TS. Trương Văn Lã – GĐ Trung tâm phát triển Công nghệ, Tài nguyên và Môi trường –  ông là người Tày đã từng nhận giải thưởng Hồ Chí Minh, quê ở ngay Pù Ổ; nhà báo Đỗ Doãn Hoàng – Báo Lao Động; ông Nguyễn Quang Huân – TGĐ Công ty cổ phần Phát triển hạ tầng Thăng Long cùng các đại diện Quỹ tiền tệ thế giới IMF.

Tuy nhiên, bản tin thời sự của VTV1 tối 12/5 đã phát đi phóng sự của PV Quang Linh, cho rằng những cáo buộc của Hội là sai sự thật và việc khai thác quặng không hề ảnh hưởng đến môi trường hồ Ba Bể.

Dân Hồ Ba Bể kêu cứu vì khai thác quặng

Cộng đồng dân cư khu vực xã Đồng Lạc, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn vừa gửi hàng loạt đơn kêu cứu, nhờ giúp thoát khỏi tình trạng môi trường ở đây đang bị ô nhiễm nghiêm trọng do khai thác quặng mỏ sắt.

Theo trình bày của người dân thôn Nà Áng, xã Đồng Lạc, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn , mỏ sắt Pù-Ô-Khuối Giang Đồng Lạc thuộc Công ty cổ phần khoáng sản Narihamico đã tiến hành khai thác quặng từ giữa tháng 8 năm 2008. Thôm Phả và Chợ Điền là hai thôn ở vị trí trực tiếp sát kề ngay với khu vực khai thác quặng của mỏ sắt. Đến nay, mỏ đã triển khai được hơn 2 năm và đã gây ra ô nhiễm môi trường, tác động ảnh hưởng lớn trực tiếp đến đời sống sinh hoạt của cộng đồng dân cư thôn Nà Áng.  

Ảnh minh họa
Mỏ đã triển khai được hơn 2 năm và đã gây ra ô nhiễm môi trường

Pù Ó là khu mỏ ở đầu nguồn khe Khuổi Giang, là một trong những khe suối cung cấp nước cho suối Bó Lú chảy vào hồ Ba Bể. Việc đào bới khai thác quặng bằng máy với công suất lớn tại Pù Ó đã đưa khối lượng đất lớn dồn xuống chân núi và rìa khe Khuổ Gaing. Khi trời mưa, lượng đất này tan ra làm nước đỏ ngầu, đôi khi nước còn quánh đặc lại như nước hồ loãng đổ dồn xuống Khe Khuổi Giang rồi theo suối Bó Lù chảy vào hồ Ba Bể. Thường có 3 buổi tối trong tuần, mỏ xả nước rửa quặng làm nước suối đục ngầu. Đặc biệt, lúc nước cạn, thỉnh thoảng thấy có them cả váng dầu trôi theo.

Ảnh minh họa
Mỏ xả nước rửa quặng làm nước suối đục ngầu…

Một điều khiến người dân thực sự lo lắng, đó là Suối Bó Lù không chỉ trực tiếp cung cấp nước cho các cánh đồng của thôn nói trên mà còn cho cả cánh đồng dọc theo nó. Đập Vằng Giang chỉ cách khu vực khai thác quặng của mỏ sắt Pù Ô chưa đầy 1km. Đây là đập chắn lấy nước cung cấp cho các cánh đồng của các thôn Thôm Phả và Chợ Điểng, Nà Áng. Do đó, khi nước lũ đã trực tiếp đưa mùn đất sét vào ruộng, nhất là các đám ruộng lấy nước trực tiếp ở sát bờ mương đã tạo ra một lớp đất sét mùn đỏ đọng lại trên mặt, khi cạn khô cứng lại như xi măng gây cho việc cầy bừa khó khăn. Còn khi đã cấy xong thì nước mùn này làm cho lúa không phát triển được, bông không mảy, lá lúa bị héo, thậm chí lá vàng úa, chin sớm hơn tuổi thu hoạch.

Người dân Nà Áng cũng phản ánh, việc rửa quặng trước khi đưa vào máy nghiền đã làm cho nước suối đục, nhất là nghiền quặng chủ yếu vào đêm, mức độ đục rất nhiều làm cho cộng đồng dân cư không thể tắm rửa sau khi đi làm đồng về. Một số người còn phản ánh sau khi đi lội nước quăng chài dọc suối hơn 1 giờ là có hiện tượng bị ngứa. Đây là hiện tượng khác so với thời kỳ chưa có khai thác quặng ở Pù Ô Khuổi Giang. Vì vậy, bà con nghi ngờ nước đục của suối có lẫn hóa chất. Trước đó, người dân Nà Áng có phát hiện hiện tượng vịt nuôi lông không còn mượt như trước và ít đẻ trứng.

Theo đơn kêu cứu, tiếng ồn của máy đào quặng cả ngày và đêm cùng với tiếng máy nghiền quặng 24/24 giờ với khoảng cách bán kính 1,5km vẫn nghe rõ, trong khi đó thôn Nà Áng chỉ cách mỏ 1,2km. Vì vậy, tiếng ồn đã ảnh hưởng rất lớn đến giấc ngủ, đặc biệt là người già và trẻ nhỏ

Người dân Nà Áng cho rằng, mỏ sắt Pù Ô Khuổi Giang đã gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt, sức khỏe cho cộng đồng dân cư Nà Áng nói riêng và dọc hai bên bờ suối Bó Lù nói chung. Tương lai chắc chắn việc ô nhiễm môi trường còn gây ảnh hưởng ngày càng lớn cho cộng đồng dân cư cả khu vực quanh hồ Ba Bể.

Đặc biệt, người dân Nà Áng đang hết sức quan tâm đến môi trường của Hồ Ba Bể, vì theo họ, với mức độ tải đất sét mùn, hóa chất rửa quặng, dầu mỡ của máy móc thải ra theo suối Bó Lù vào hồ Ba Bể như hiện nay thì tương lai chắc chắn không chỉ gây ô nhiễm nguồn nước, gây khó khăn cho sinh hoạt của cộng đồng dân cư nói trên mà còn là nguyên nhân gây ô nhiễm, khiến việc bồi lấp đối với hồ Ba Bê diễn ra nhanh chóng hơn.

Cộng đồng dân cư Nà Áng đã khẩn thiết kêu gọi hội đồng hương Bắc Kạn tại Hà Nội nhanh chóng có biện pháp giúp đỡ, ngăn chặn để họ có thể thoát khỏi cảnh ngộ nói trên trong thời gian ngắn nhất.

Kèm theo lá đơn là danh sách và chữ ký của hàng chục người dân sinh sống tại Nà Áng.

Trao đổi với báo chí chiều 26/4/2001, nhà thơ Dương Thuần, chủ tịch Hội đồng hương Bắc Kạn cho biết, trước đó, cuối năm 2010 và đầu năm 2011, Hội đồng hương Bắc Kạn tại Hà Nội cũng nhận được đơn của dân cư ở xóm Bản Duồn, xã Quảng Bạch, đơn của các gia đình ở bản Nà Pha, xã Đồng Lạc, đơn của dân cư hai xóm Thôm Phả và Chờ Điềng… với hàng trăm chữ ký của người dân phản ánh về tình trạng mỏ sắt Pù Ô – Khuổi Giang của công ty cổ phần khoáng sản Narihamico gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của dân cư các khu vực nói trên.

Nguồn Tuệ Khanh (Vnmedia.vn)


Không có chuyện hồ Ba Bể bị bồi lắng “chóng mặt”

Gần đây có một số thông tin liên quan đến hồ Ba Bể, một trong 20 hồ nước ngọt đặc biệt của thế giới cần được bảo vệ, trong đó nói đến việc hồ Ba Bể bị bồi lắng “chóng mặt.”

Phóng viên Thông tấn xã Việt Nam thường trú tại Bắc Kạn đã tìm hiểu xung quanh vấn đề mà các phương tiện truyền thông đã nêu.

Việc hồ Ba Bể bị bồi lắng là có thật, nhưng thời điểm và nguyên nhân bồi lắng cần phải nói cho đúng bản chất của sự việc này.

Nguyên nhân bồi lắng hồ Ba Bể

Theo đánh giá của Viện Khoa học thủy lợi nghiên cứu về bồi lấp hồ Ba Bể năm 2002, hồ Ba Bể  bị bồi lấp qua  3 con sông, suối là sông Chợ Lèng và suối Bó Lù, suối Tà Han từ hàng trăm năm qua đã chảy vào hồ mang theo một lượng phù sa.

Thêm vào đó, trong những năm 1960-1999, tình trạng người dân phá rừng làm nương rẫy ở đầu nguồn nên việc bồi lắng trầm trọng hơn. Điều này phù hợp với đánh giá của giáo sư, tiến sĩ khoa học Mai Đình Nghiên (nhà nghiên cứu cá và hồ nổi tiếng), khi ông cùng một nữ giáo sư người Mỹ nghiên cứu hồ Ba Bể đã phát hiện lớp bùn có tro dưới đáy hồ.

Ông Nguyễn Văn Du, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Kạn cũng cho rằng đây là một thực tế khó  tránh  bởi  theo chính sách định canh định cư, đưa những người dân miền xuôi, lên khai hoang, lập bản cùng với người dân địa phương của Chính phủ vào những năm 60, tiếp đó là  những năm chiến tranh, mọi người đều nỗ lực sản xuất nhiều lương thực… việc phát nương làm rẫy ở những cánh rừng xung quanh hồ.

Những năm sau này, nhất là từ khi có Quyết định của Thủ tướng Chính phủ thành lập Vườn Quốc gia năm 1992, việc quản lý bảo vệ tài nguyên Vườn Quốc gia đã được quan tâm, cải thiện. Từ năm 2003, khi được công nhận là di sản ASEAN, hệ sinh thái rừng và nước của Vườn Quốc gia Ba Bể ngày càng được bảo vệ tốt hơn, trong đó, hệ sinh thái rừng được quản lý, bảo vệ và phục hồi, tốc độ bồi lấp ít hơn do đã chấm dứt cơ bản việc phát nương làm rẫy, rừng được giao cho dân quản lý, bảo vệ và trồng rừng phòng hộ.

Năm 1995 có trên 1.535ha là nương rẫy, đến nay đã phục hồi 1.415 ha, chỉ còn khoảng 120ha nương rẫy gần các bản làng, nhưng cách xa hồ. Diện tích hồ chưa có sự đo đếm chính xác nhưng trong 10 năm trở lại đây mức độ bồi lắng không nhiều, chủ yếu từ phù xa của các dòng sông, suối đổ vào hồ.

Hồ Ba Bể hiện nay vẫn là hồ nước trong xanh, sạch; nếu có ô nhiễm thì độ ô nhiễm chưa vượt ngưỡng nguy hiểm, vì các loài thuỷ sinh của hồ được bảo tồn và cũng đã phát hiện thêm một số loài mới. Sự ô nhiễm-chủ yếu từ rác thải nông nghiệp, rác thải sinh hoạt- nhưng rất ít.

Để khẳng định nguyên nhân và mức độ ô nhiễm hồ Ba Bể cần có kiểm định bằng khoa học, đầu tư kinh phí để làm việc này mới thực sự chính xác và khách quan. Trong vùng lõi Vườn Quốc gia Ba Bể không được phép, và không ai cấp mỏ trong vùng lõi của Vườn, kể cả đá trắng và kim loại. Mỏ đá trắng ở Quảng Khê nằm ngoài vùng lõi của Vườn. Mỏ Pù Ổ thuộc địa phận huyện Chợ Đồn, ngoài cả vùng đệm của Vườn rất xa.

Ông Nguyễn Văn Đằng, một người dân thôn Bó Lù, xã Nam Mẫu, sống cạnh hồ Ba Bể trên 50 năm, nói: “Từ khi đủ nhận biết, tôi đã thấy cánh đồng trước nhà mình, mà theo nhiều người cao tuổi thì trước đây, đó là một phần của hồ Ba Bể. Những năm sau đó, sự bồi lắng mỗi ngày một nhiều hơn, nhưng rõ nhất là vào những năm 70, 80 của thế kỷ trước, khi đó người dân đốt nương làm rẫy nhiều lắm, mỗi khi có mưa, nước xối làm đất đá trên núi trôi xuống hồ.

Từ khi nhà nước có chính sách giao đất, giao rừng cho dân, và di một phần dân ra khỏi vùng lõi Vườn quốc gia, việc đốt nương làm rẫy bị nghiêm cấm thì hồ ít bị bồi lắng hơn.

Mỏ sắt Pù Ổ không đổ thẳng nước thải ra hồ Ba Bể

Theo quan sát của phóng viên, việc thông tin khai thác quặng sắt tại mỏ Pù Ổ đổ thẳng chất thải ra hồ Ba Bể mà không qua hệ thống xử lý chất thải là hoàn toàn không chính xác.

Qua khảo sát thực tế cùng những người có trách nhiệm của tỉnh Bắc Kạn và một số người dân địa phương nhận thấy, mỏ sắt Pù Ổ có hệ thống xử lý chất thải với 4 hồ chứa, được thiết kế đúng quy định cần thiết của một mỏ khai thác kim loại sắt.

Tại xã Quảng Bạch, là địa phương có mỏ sắt Pù Ổ, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Hoàng Văn Hoạt cho biết, phải khẳng định là đơn vị khai thác có tạo bể lắng, họ làm 4 bể, nước rửa quặng được chảy xuống bể lắng 1, tràn qua bể 2, lắng một lần nữa, tràn qua bể 3, lắng tiếp rồi mới tràn qua bể 4. Tại bể 4, nước đã trong và thường dẫn vào mương tưới cho các ruộng lúa không ảnh hưởng gì.

Nhìn nhận từ thực tế, việc khai thác có ảnh hưởng môi trường, do bóc đất mặt, khi gặp mưa, nước đục chảy vào một số diện tích lúa của người dân, cũng chảy cả ra khe Khuổi Giang. Vấn đề này chính quyền địa phương cùng với đơn vị thi công đã tính toán diện tích bị đất quặng tràn vào để đền bù theo sự thoả thuận giữa người dân và công ty. Hiện vẫn còn một số diện tích bị ảnh hưởng, vẫn gieo cấy được nhưng có thể năng suất không cao, khi thu hoạch sẽ có so sánh để bồi thường cho người dân.

Ông Triệu Văn Chấp, Phó Trưởng thôn Bản Duồm, người đã làm đơn khiếu nại về việc khai thác làm ảnh hưởng đến sản xuất cho khoảng 2.000m2 ruộng của nhà ông và một số gia đình thuộc thôn Bản Duồn cũng nói, ông chỉ yêu cầu xem xét giải quyết ảnh hưởng sản xuất, tìm nguồn nước sạch phục vụ cho sản xuất chứ không nói gì về bồi lắng hồ Ba Bể.

Ông Ma Văn Chính, Trưởng thôn Bản Duồm nói: “Tôi không tin việc khai thác mỏ Pù Ổ lấp hồ Ba Bể, có thể có ảnh hưởng, nhưng không đáng kể, vì dòng chảy của khe Khuổi Giang vào suối Bản Duồn, qua hang Bác Chản, ra suối Nam Cường rồi mới vào hồ Ba Bể, một quãng đường dài hơn 30km.”

Được hỏi ở thôn Bản Duồn của ông có ai ký vào đơn “kêu cứu” cho hồ Ba Bể không? Ông Chính lắc đầu: “Tôi chỉ nghe nói có ông Hứa Văn Thúc, có ký vào một đơn do một người ở Hà Nội đưa lên?! Không biết đơn viết gì.”

Có 2 người phụ nữ là bà Ma Thị Tỵ và Ma Thị Ương, người thôn Bản Duồm, xã Quảng Bạch nói, họ cũng được một người đàn ông đưa đến một lá đơn bảo ký vào để được bồi thường vì ảnh hưởng đến môi trường, ảnh hưởng đến sản xuất của họ. Họ đã ký mà không được đọc đơn…

Trao đổi với phóng viên TTXVN về việc nhiều người dân ở xã Quảng Bạch, Đồng Lạc gửi đơn thư đề nghị giúp đỡ việc bảo vệ hồ Ba Bể, ông Nguyễn Văn Du, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh  cho biết, Ủy ban Nhân dân tỉnh không nhận được bất cứ đơn thư nào.

Ủy ban Nhân dân tỉnh đã có công văn (số 879/UBND ngày 22/4/2011) gửi cho Hội đồng hương Bắc Kạn tại Hà Nội, muốn được cung cấp đơn thư của các hộ dân để có căn cứ giao cho các ngành chức năng xác minh, tham mưu giải quyết các yêu cầu của nhân dân…Tuy nhiên, cho đến thời điểm này Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Kạn vẫn chưa nhận được sự phúc đáp của Hội đồng hương Bắc Kạn tại Hà Nội, ông Du cho biết thêm.

Hồ Ba Bể là di sản quốc gia, di sản ASEAN và hy vọng một ngày không xa sẽ được công nhận là di sản thế giới. Gàn đây, bằng nỗ lực của mình, Vườn Quốc gia Ba Bể đã được công ước Ramsar công nhận là vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, cần được bảo vệ nghiêm ngặt. Thiết nghĩ, việc bảo vệ, gìn giữ di sản này là mong muốn của tất cả mọi người và nó cần được bảo vệ bằng chính cái tâm sáng  trong mỗi con người.

<

p style=”text-align: justify;”>Nguồn Nguyễn Trình (TTXVN/Vietnam+)

Chia sẻ:

QUẢNG CÁO

Tin liên quan:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *