Dược phẩm xanh

QUẢNG CÁO

(H2N2)-Không ai có thể phủ nhận vai trò tích cực của dược phẩm trong lĩnh vực phòng và chống bệnh tật, bảo vệ sức khỏe và kéo dài tuổi thọ của con người.

Nhưng vì là một ngành liên quan nhiều đến hóa chất, do đó trong quá trình sản xuất, lưu thông, tiêu dùng, nó có thể gây tác hại đối với môi trường. Điều này đòi hỏi cần có sự lưu tâm, tìm các biện pháp phòng ngừa và khắc phục .

Gây ô nhiễm trong quá trình sản xuất

Mỗi loại nguyên liệu dùng để sản xuất thuốc đều có những đặc tính lý, hóa, sinh, nhằm mục đích trị liệu, trong đó có những chất thuộc loại độc, chưa kể qua công đoạn bào chế, pha trộn lẫn với nhau, mức độ độc hại có sự thay đổi. Nếu đó là những chất hòa tan hữu cơ, khi tiếp xúc không thận trọng, chúng có thể xâm nhập vào cơ thể một cách dễ dàng qua da, tích tụ trong các mô có nhiều chất mỡ như não, chất myelin (vỏ dây thần kinh) và mô mỡ. Việc phơi nhiễm với các chất trên làm cho hệ thần kinh trung ương suy yếu, mỏi mệt hay trầm cảm, gây rối loạn tâm trí hay mất tập trung suy nghĩ, ảnh hưởng đến sự điều phối của vận động, tổn thương mao mạch hệ thần kinh trung ương, thiếu oxy ở não, nhức đầu và làm giảm khả năng nhận thức. Phơi nhiễm lâu dài có thể tác động đến khí chất: trầm cảm, dễ kích động, mỏi mệt mất khả năng điều phối trong hành động, mất trí nhớ trong một thời gian ngắn. Ngoài ra nếu cơ sở sản xuất thuốc không xử lý nước thải theo đúng quy chuẩn, hoặc có xử lý nhưng không loại bỏ được tất cả hóa chất có trong nguồn nước thải (số lượng nước thải này thường có khối lượng rất lớn) – mà xả thẳng vào hệ thống cống rãnh, sẽ gây ô nhiễm trầm trọng. Tại Mỹ, khi nghiên cứu và phân tích 139 nguồn nước, Cơ quan thăm dò địa chất (USGS) cảnh báo có đến 80% nguồn nước có chứa vi lượng của nhiều dược phẩm, trong đó hơn 50% chứa trên 7 hóa chất khác nhau, đặc biệt có nguồn nước chứa đến 38 hóa chất (!). Việc ô nhiễm này có thể có ảnh hưởng tới sức khỏe con người, như với một dung lượng thật nhỏ thalidomide hoặc chất DES (diethylstilbestrol) trong nguồn nước đều có thể ảnh hưởng đến thai nhi, thalidomide từng gây hàng vạn thai nhi dị dạng trong những năm 1950 và chất DES cũng khoảng thời gian trên, đã gây khuyết tật bẩm sinh và nhiều vấn đề rắc rối ở bộ máy sinh sản của cả hai giới (ung thư tinh hoàn, vô sinh, ung thư âm đạo và cổ tử cung, tình dục đồng giới khi trưởng thành).

Ô nhiễm trong quá trình sử dụng

Sau khi thuốc được đưa vào cơ thể, sẽ biến đổi theo quá trình chuyển hóa tại các cơ quan bộ phận và được thanh thải ra ngoài qua đường nước tiểu, phân… sau đó có mặt dưới dạng lỏng hoặc rắn trong hệ thống cống nước thải sinh hoạt, tiếp xúc với môi trường tự nhiên
Dược phẩm cũng còn được dùng trong chăn nuôi động vật và cũng được thải trừ theo quá trình trên ra môi trường. Ở Mỹ đã có theo dõi: nước thải từ công việc này hàng năm tuồn vào môi trường khoảng 500 triệu tấn gồm thuốc kháng sinh, các loại hormon tăng trưởng tổng hợp và nhiều loại hóa chất khác…
Một số nghiên cứu đã nêu lên ảnh hưởng không tốt đến môi trường  mà chịu tác động đầu tiên là các loại thủy, hải sản  Khi nghiên cứu trên cá hồi tiếp xúc với một số nước thải sinh hoạt, các nhà khoa học nhận thấy: số cá này bị phơi nhiễm với quá nhiều chất estrogen do đó đã làm cho một số cá đực không còn khả năng truyền giống, mất khả năng sinh sản. Có ý kiến cho rằng đây là hậu quả của việc các chị em dùng các thuốc tránh thai có chứa estrogen tổng hợp, đó là chất etthinyl estradiol (EE) có trong nước tiểu. Thử nghiệm bằng cách cho cá tiếp xúc với nước có chứa EE, thấy dù hàm lượng chất này ở mức rất nhỏ, chỉ vài nanogam (một phần tỉ của gam) cũng làm cho cá bị ảnh hưởng. Một số thuốc khác như prozac có trong nước thải cũng làm giảm khả năng tăng trưởng của cá và ếch.

Ô nhiễm do thuốc

Qua thống kê, tại Mỹ có đến 45% dược phẩm không cần dùng nữa hay hết hạn dùng đã được hủy bỏ qua đường cống rãnh, hoặc vứt vào bãi rác (28%).
Tại Thâm Quyến (Trung Quốc), qua phỏng vấn 22 người dân về việc xử lý các thuốc ở gia đình khi quá hạn dùng, có 20  người đều giải quyết bằng cách cho vào thùng rác, chỉ có 2 người tìm đến cơ quan thu hồi phế phẩm để đưa nộp, nhưng khi đến đây cũng không được sự tiếp nhận mặn mà nên họ cũng chọn cách vứt vào bãi rác, tuy biết rằng cách làm đó là không nên vì gây ô nhiễm môi trường hoặc bị kẻ xấu lợi dụng, lấy thuốc đó thay đổi nhãn, bao bì, hạn dùng đưa vào tiêu thụ ở vùng nông thôn hẻo lánh, ít hiểu biết. Một tài liệu khác ở Mỹ cho thấy hàng năm chỉ riêng việc đổ bỏ dược phẩm không dùng nữa sau khi bệnh nhân đã mất, ở các bệnh viện vào hệ thống cống rãnh, rác thải đã lên đến gần 20 tấn các loại: kháng sinh, thuốc chống trầm cảm, thuốc ngừa thai và đủ các loại khác…
Việc xử lý các thuốc quá hạn, không cần dùng nữa là vấn đề không đơn giản  Sự vứt bỏ tùy tiện khiến thuốc bị bốc hơi, phân hủy tạo ra hợp chất độc hại khiến cho không khí, môi trường sống bị ô nhiễm  Nếu chôn không đúng cách, các chất độc có trong thuốc phân hủy sẽ hòa nhập gây ô nhiễm đất và nguồn nước  Đem đốt tự nhiên cũng dễ phát sinh các loại khí rất độc hại.
Đây mới chỉ là việc xử lý thuốc trong phạm vi nhỏ, còn đối với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thuốc khi nhận được thông báo của Cơ quan quản lý nhà nước về dược, về việc phải thu hồi và xử lý các lô thuốc do chất lượng không đảm bảo (thiếu hoạt chất hoặc hoạt chất không đạt quy định theo tiêu chuẩn, thuốc nhiễm khuẩn…) chắc vấn đề còn phức tạp hơn nhiều vì khối lượng sản phẩm lớn.

Hướng khắc phục

Tại Mỹ, từ năm 2007 đã triển khai chương trình “Dược phẩm xanh”, dưới danh nghĩa Dược phẩm và sản phẩm dùng cho cá nhân (PPCPS), nhằm cảnh báo về sự ô nhiễm của PPCPS, giáo dục cho mọi người hiểu biết mức độ tác hại của sự ô nhiễm này đưa ra khuyến cáo về thái độ đúng đắn khi xử lý các thuốc quá hạn hay không cần dùng, tổ chức tốt việc thu nhận các thuốc này tại một địa phương do một đơn vị có chức năng thực hiện, sau đó tiêu hủy theo đúng quy định.
Ở Trung Quốc, cũng đã nhận thấy mối hiểm họa do các chế phẩm là thuốc gây ra nên nhiều tổ chức đã kêu gọi Chính phủ Trung Quốc nên có quy định liên quan đến việc này. Cần tạo thói quen cho người dân trong việc thu gom và nộp các loại thuốc cần hủy bỏ bằng cách các nhà thuốc bán lẻ có thiết kế một hộp thu hồi thuốc sau đó tập trung cho một đơn vị có chức năng nhiệm vụ (được cung cấp tài chính) để triển khai hoạt động tiêu hủy có hiệu quả, dưới sự giám sát của Cơ quan quản lý dược phẩm.

Tác giả: DS. Phạm Tiếp

Nguồn: Báo Sức khoẻ & Đời sống

Chia sẻ:

QUẢNG CÁO

Tin liên quan:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *