Không nên uống nước bưởi khi dùng thuốc

QUẢNG CÁO

buoi-pomelo(H2N2)-Theo số liệu từ Bộ nông nghiệp Hoa Kỳ, mỗi năm, người Mỹ “lai rai” khoảng 164 triệu gallons nước ép bưởi (theo đơn vị đo lường Mỹ thì 1 gallon tương đương với 3.785ml. khác với 1 gallon của Anh vốn tương đương với 4.545ml). Con số của Bộ Nông nghiệp Mỹ đã làm giật mình các bác sĩ và dược sĩ.

Thật bất ngờ, sự tương tác giữa nước ép bưởi và các loại dược phẩm được khám phá một cách rất tình cờ cách nay vài thập kỷ. Vào lúc đó, một loại thuốc trị cao huyết áp là felodipine đã nổi đình nổi đám và là cứu tinh của không biết bao nhiêu bệnh nhân cao huyết áp. Các nhà bào chế ra dược phẩm này trong lúc nghiên cứu xem rượu hoặc các chất cồn (alcohol) có tác động gì trên loại thuốc này hay không. Nhóm nghiên cứu người Canada đã dùng một dung dịch chứa cồn, bỏ thêm một ít nước ép bưởi nhằm che bớt mùi vị khó ưa của alcohol. Bỗng nhiên, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng nồng độ của felodipine trong máu tăng gấp nhiều lần so với những lần nghiên cứu trước đó. Sự gia tăng nồng độ của felodipine trong máu có thể làm tăng tác động và các tác dụng phụ của loại thuốc này. Những nghiên cứu sâu hơn nữa đã cho thấy rằng, chính nước ép bưởi đã làm tăng nồng độ trong máu của các loại thuốc được nghiên cứu.

Gần 20 năm nay, các bác sĩ và dược sĩ đã đếm được có trên 50 loại thuốc được kê toa và không cần kê toa bị ảnh hưởng bởi dịch ép bưởi. Những nghiên cứu về sự tương tác giữa nước bưởi và dược phẩm đã đặt giả thuyết rằng những hợp chất có trong nước bưởi có tên gọi là furanocoumarins chịu trách nhiệm chính trong việc tương tác với dược phẩm. Furanocoumarins tồn tại ở hai dạng đồng phân có tên gọi và cấu trúc như hình dưới. Một trong những đồng phân của furanocoumarins là psoralen được sử dụng trong liệu pháp PUVA (Psoralen + UVA) để chữa các bệnh về da như vảy nến, eczema, á sừng và bạch tạng.

PsoralenPsoralen                    AngelicinAngelicin

Các nhà nghiên cứu cho rằng, furanocoumarins cùng với các chất naringin, bergamottin và dihydroxybergamottin đã làm mất tác dụng của một loại enzyme có tên là CYP3A4 hiện diện trong các tế bào màng ruột. Enzyme này có khả năng phân giải nhiều loại thuốc. Khi enzyme này bị nước bưởi “phế vỏ công” thì thuốc sẽ tự do đi vào hệ tuần hoàn máu, từ đó sẽ làm tăng sự hấp thu của những loại thuốc này. Điều này nghe có vẻ như có lợi cho việc sử dụng dược phẩm. Thực tế điều này sẽ gây nguy hiểm cho cơ thể. Nếu một thuốc được hấp thu nhanh hơn mong đợi, có nghĩa là thuốc ấy sẽ tăng tác động. Ví dụ như một thuốc dùng để hạ huyết áp có thể sẽ làm hạ huyết áp quá mức. Nếu một thuốc tăng hấp thu, đồng nghĩa với việc tăng những tác dụng phụ có hại hoặc ngộ độc thuốc, chẳng hạn như nếu đang dùng một loại thuốc hạ cholesterol, nếu có hiện diện của nước ép bưởi, nồng độ thuốc này trong máu sẽ cao hơn và có thể gây ra sự rối loạn cơ, tổn thương gan…

Chỉ cần một ly nước bưởi chừng 200ml là đủ có thể “sinh sự” với thuốc. Tác động này có thể kéo dài tới 24 giờ. Không giống như những dạng tương tác thuốc khác vốn có thể tránh được bằng cách sử dụng 2 tác nhân có thể gây ra sự tương tác thuốc cách nhau vài giờ. Đối với nước bưởi này thì khoảng cách thời gian từ khi uống nước bưởi cho đến khi sử dụng các loại dược phẩm (vốn có sự tương tác với nước bưởi) phải trên 24 giờ. Ví dụ về những loại dược phẩm có thể bị tác động bởi nước bưởi bao gồm:

– Thuốc kháng sinh: bao gồm những tên thuốc như: clarithromycin, erythromycin, troleandomycin.

– Thuốc chống lo âu: alprazolam, buspirone, midazolam, triazolam.

– Thuốc chống loạn nhịp tim: amiodarone, quinidine.

– Thuốc chống đông: warfarin.

– Thuốc chống động kinh: carbamazepine (carpatrol, tegretol).

– Thuốc kháng nấm: itraconazole.

– Thuốc trị giun sán: albendazole.

– Thuốc kháng histamine: fexofenadine.

– Các thuốc kháng ung thư: cyclophosphamide, tamoxifen, vinblastine, vincristine.

– Thuốc trị ho: dextromethorphan.

– Thuốc kháng virút: amprenavir, indinavir, ritonavir, saquinavir, thuốc điều trị HIV/AIDS.

– Thuốc ức chế kênh calcium trong điều trị cao huyết áp: diltiazem, felodipine, nicardipine, nifedipine, nimodipine, nisoldipine.

– Thuốc trị rối loạn cương dương: sildenafil, tadalafil.

– Thuốc ức chế miễn dịch: cyclosporine, sirolimus, tacrolimus.

– Thay thế hormone: cortisol, estradiol, methylprednisolone, progesterone, testosterone.

– Thuốc trị bệnh tuyến tiền liệt: finasteride.

– Thuốc giảm đau: methadone. Nếu bệnh nhân được kê những loại thuốc thuộc các nhóm bệnh trên thì cần phải hỏi ý kiến của thầy thuốc về những tương tác có thể xảy ra với nước bưởi. Như đã nói, không phải loại thuốc nào cũng bị nước bưởi “sinh sự”, chỉ có một số loại “không may mắn” mà thôi. Sự tác động của nước buởi lên dược phẩm biến đổi từ người này sang người khác và cũng biến đổi tùy theo những giống bưởi khác nhau. Cũng đã có nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, nếu ăn bưởi (thay vì uống dịch ép nước bưởi) cũng sẽ ít nhiều có sự tương tác với dược phẩm. Vì vậy, lời khuyên của thầy thuốc là khi sử dụng bất kỳ loại dược phẩm nào, nếu muốn chắc ăn thì tránh bưởi chẳng… xấu mặt nào.

 

DS Nguyễn Bá Huy Cường

Nguồn Sức khỏe và Đời sống

QUẢNG CÁO

Tin liên quan:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *