Cacbofuran (2,3-đihydro-2,3-đimetyl-7-benzofuranyl N-metylcacbamat), công thức hóa học C12H15NO3, là một loại thuốc trừ sâu phổ rộng. Đây là hóa chất thuộc họ cacbamat, có tác động ức chế enzym cholinesteraza – enzym này tham gia trong hầu hết các quá trình đáp ứng sinh lý ở côn trùng, động vật có vú và các loài lông vũ. Cacbofuran được nhà sản xuất FMC (Mỹ) phát triển vào những năm 1960 – với tên thương mại là Furadan – để thay thế cho các thuốc trừ sâu clo hữu cơ vốn có nhược điểm là khó phân hủy nên tồn tại dai dẳng trong môi trường. Bản quyền sản xuất cacbofuran của FMC đã hết hạn từ nửa cuối của thập niên 1980. Hiện nay, cacbofuran đang được sản xuất tại nhiều nước trên thế giới.
Tên gọi khác: Furadan, Curaterr, Yaltox, Carbofurane, Pillarfuran, Crisfuran, Kenofuran, Chinufur, Furacarb.
Độc tính
- Nhóm độc: I.
– LD50: 11 mg/kg.
– PHI: 14 ngày.
– Thuốc rất độc đối với người và động vật máu nóng, nhưng an toàn đối với cây trồng.
- Tính chất khác: thuốc ở dạng hạt có màu tím hay trắng xám, mùi nồng nhẹ, ít tan trong nước, tan nhiều trong các dung môi hữu cơ. Thuốc dễ bị phân hủy ở nhiệt độ cao và trong môi trường kiềm.
Sản phẩm này sẵn có ở dạng lỏng, dạng hạt cát và dạng hạt ngô. Dạng hạt cát mịn hoặc dạng hạt ngô được thiết kế sao cho thành phần hoạt tính sẽ đợc nhả dần vào rễ của cây đang phát triển. Cacbofuran cũng được sử dụng như một loại thuốc trừ sâu để xử lý hạt giống. Khi đã đợc hấp thụ, nó được vận chuyển có hệ thống theo nhựa cây, do đó côn trùng hoặc các loài vật gây hại khác ăn phải cây trồng có cacbofuran sẽ bị nhiễm độc.
Các sản phẩm bảo vệ thực vật có chứa thành phần hoạt tính là cacbofuran đã được sử dụng rộng rãi để kiểm soát côn trùng gây hại cho mía, củ cải đường, ngô, lúa miến, cà phê, ngũ cốc, lúa và nhiều loại cây trồng khác.
Cacbofuran cũng tồn tại dai dẳng trong môi trường
Cho đến nay, đã có bằng chứng chứng tỏ rằng cacbofuran có thể tồn tại dai dẳng trong môi trường khi có điều kiện phù hợp. Trong đất, các quá trình hóa học chịu ảnh hưởng của các yếu tố nh pH, nhiệt độ, hàm lượng đất sét, hàm lượng chất hữu cơ, độ ẩm, sự hiện diện của vi sinh vật và các loại nhóm chức gắn trong phân tử thuốc trừ sâu. Ngoài ra, các yếu tố môi trường bên ngoài như gió, độ ẩm, nhiệt độ đất và nhiệt độ không khí, lượng mưa,…cũng ảnh hưởng đến sự suy biến và tiêu tán của các loại thuốc trừ sâu trong đất.
Cacbofuran có xu hướng bị thủy phân nhanh trong môi trường đất kiềm, nhưng nhìn chung là ổn định và bền vững trong các loại đất trung tính hoặc đất axit.
Theo Cơ quan Bảo vệ môi trờng Mỹ (EPA), cacbofuran hòa tan tương đối tốt trong nước và có khả năng gây ô nhiễm nhiều nguồn nước, kể cả nước ngầm. Cacbofuran trong ruộng ngập nước sau mưa bão hoặc do tới tiêu đã dẫn đến cái chết của nhiều sinh vật, đặc biệt là thủy cầm. Nước bề mặt cũng có thể bị nhiễm độc do tiêu hủy cacbofuran không thích hợp, do các sự cố chảy tràn hoặc do nhiễm độc trực tiếp. Trong tất cả trường hợp đó, hoạt động và sự tiêu hủy của cacbofuran có thể khác nhau khi ở môi trường ôn đới hoặc nhiệt đới.
Đầu thập niên 1970, người ta đã phát hiện ra rằng cacbofuran gây nhiễm độc nhiều loài sinh vật không phải là mục tiêu của nó, đặc biệt là các loài chim. Khả năng chuyển hóa của chim đối với các hợp chất cacbamat hoặc các phốt phát hữu cơ rất kém, vì vậy chúng dễ chết vì bị nhiễm độc.
Trong thời gian 1973-1975, các khảo sát thực địa tại Canada đã chứng minh rằng đã có ít nhất 4 sự cố riêng rẽ xảy ra ở bang British Columbia, làm chết hơn 1300 con chim. Do đó, vào năm 1976 thuốc trừ sâu cacbofuran dạng hạt đã không được phép sử dụng ở Canada. Tuy nhiên, dưới sức ép của các cơ quan quản lý nông nghiệp thì hơn 10 năm sau sản phẩm này lại được bày bán trên thị trường. Trong năm mà thuốc trừ sâu này xuất hiện trở lại, đã có hơn 1000 cá thể chim và thủy cầm chết vì tác động của nó.
Hoahocngaynay.com/Hoahoc.info
Nguồn: TC Hóa học & CN Hóa chất/Chemistry & Industry