Nhiên liệu sinh học và hiện trạng sản xuất, sử dụng ở Việt Nam (Phần II)

QUẢNG CÁO

(Hóa học ngày nay-H2N2)-Nhiên liệu sinh học đã được các nhà khoa học nước ta chú ý đến từ  những năm  cuối của thế kỷ 20 và cho đến nay đã có một số nghiên cứu điều chế diesel sinh học theo phương pháp este hóa với nguyên liệu là đậu  tương, dầu dừa, dầu phế thải, các loại hạt có dầu.. cũng như nghiên cứu phản ứng transeste hóa bằng siêu âm, nhiệt phân hay hydro hóa nhưng chỉ là  việc làm tự phát và kết quả chỉ mang tinh định hướng hoặc học thuật.

Từ sau năm 2000 đã có một số xí nghiệp, công ty, đơn vị nghiên cứu tổ chức sản xuất  nhiên liệu sinh học dưới dạng pilot như công ty Minh Tú (Cần Thơ), ĐH Bách khoa TP Hồ Chí Minh, Viện Hóa Công Nghiệp Hà Nội, Viện khoa học Vật liệu Ứng dụng TPHCM… được dư luận quan tâm.

Một nhà máy sản xuất nhiên liệu Ethamol (Ảnh: Gas2.org)

Theo www.cafef.com. thì nhân dân ở  đồng bằng Cửu Long đã dùng diesel sản xuất từ mỡ cá basa và cá tra để chạy máy tàu, thậm chí còn xuất khẩu với giá 0,6USD/lit nhưng cũng gặp một số trục trặc vì chưa có quy trình công nghệ phù hợp, chưa có tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm cũng như quy định tỷ lệ pha trộn diesel sinh học tương ứng với các loại động cơ  chạy diesel dầu mỏ. Công ty SaigonPetro, công ty mía đường Lam Sơn, công ty rượu Bình Tây cũng đã sản xuất thử nghiệm  xăng E5 cho xe ô tô nhưng chưa đưa vào được thị trường. Tháng 9/2008 Công ty cổ phần hóa dầu và nhiên liệu sinh học dầu khí( PVB)  cung cấp xăng E5 sản xuất từ ethanol sinh học nhập khẩu từ Brazil cho 50 taxi ở Hà Nội  nhưng sau đó bị đình chỉ vì Việt Nam chưa có tiêu chuẩn xăng sinh học.Việc tỏ chức trồng nguyên liệu không có sự tham gia chỉ đạo của các cơ quan  quản lý nhà nước nên cũng chưa mang lại kết quả.

Ngày 20/11/2007, Thủ Tướng Chính Phủ  đã chính thức phê duyệt “Đề án phát triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025”, trong đó  đưa ra mục tiêu đến 2010 sản xuất 100.000 tấn xăng E5/năm và 50.000 tấn  B5/năm, đảm bảo 0,4%  nhu cầu nhiên liệu cả nước và đến năm 2025 sẽ có sản lượng  hai loại sản phẩm này đủ đáp ứng 5% nhu cầu thị trường nội địa. Đề án cũng đưa ra 6 giải pháp quan trọng  nhằm phát triển năng lượng sinh học và kiến lập thị trường để đưa ngành này từng bước hội nhập với thế giới (xem http://vpqppl4.moj.gov.vn).

Để thực hiện chiến lược này, PetroVietNam dự kiến từ 2011 đến 2015 sẽ đưa 3 nhà máy ethanol sinh học ở Quảng Ngãi, Phú Thọ, Bình Phước vào hoạt động với tổng công suất 230.000 tấn/năm và từ sản phẩm này  sẽ pha thành nhiên liệu E5-E10, đáp ứng khoảng 20% tổng nhu cầu tiêu thụ xăng sinh học cả nước. Từ năm 2008 đến nay Việt Nam đã có 4 dự án sản xuất ethanol sinh học từ sắn lát hoặc rỉ đường để trộn với xăng thành gasohol. Mẻ cồn đầu tiên của Công ty cổ phần Đồng Xanh (Quảng Nam) đạt 120.000 lit/ngày đã ra lò vào tháng 10/2009, góp phần đưa tổng sản lượng cồn của Việt Nam trong năm này đạt 50 triệu lit/năm. Tuy nhiên giá cồn trên thị trường trong nước đã tăng từ 5000 đồng/lit năm 2001 lên 13.000 đồng/lit năm 2010, trở thành cao hơn giá bán trong khu vực. Sở dĩ có tình trạng này vì quy mô sản xuất nhỏ, công nghệ lạc hậu, chưa sử dụng nhiều loại nguyên liệu khác rẻ hơn, chưa tận dụng các phụ phẩm đẻ hạ giá thành sản phẩm.

Sản xuất nhiên liệu sinh học ở Việt Nam cũng được nhiều đối tác nước ngoài  rất quan tâm. Đáng chú ý trong  số này là các Dự án JICA – Nhật bản hỗ trợ Việt Nam nghiên cứu sản xuất nhiên liệu sinh học sử dụng các loại phế phẩm bã mía, rơm rạ; dự án do Chính phủ Hà Lan tài trợ sử dụng trấu, vỏ cà phê, trái điều, vỏ điều, rong biển; chương trình tổng thể về nghiên cứu và phát triển nhiên liệu sinh học ở Việt Nam của Hàn quôc  sản xuất diesel sinh học và các hóa chất tinh khiết thân thiện với môi trường từ dầu thực vật v v…

Thuận lợi và khó khăn trong sản xuất nhiên liệu sinh học ở Việt Nam

Để có thể sản xuất  nhiên liệu sinh học  quy mô lớn và đề xuất được các giải pháp cụ thể đem lại hiệu quả kinh tế  cũng như  giảm thiểu ô nhiễm môi trường, xử lý nước thải sau chưng cất, chúng ta cần thấy hết những khó khăn, thuận lợi trong lĩnh vực này.

Trong hội thảo về chiến lược  tăng tốc trong lĩnh vực hạ nguồn do Hội Dầu Khí Việt Nam tổ chức ngày 11/9/2010 tại Hà Nội đã có rất nhiều ý kiến về vấn đề này nhưng tập trung nhất là trong tham luận của TS Võ Thị Hạnh, phòng Vi sinh, Viện sinh Học nhiệt đới. Theo TS Hạnh, đối với nguồn nguyên liệu thì nước ta là một nước nông nghiệp nên có rất nhiều thuận lợi. Nước ta đã có quy hoạch phát triển ngành mía đường, đến năm 2010 diện tích trồng mía dự kiến đạt khoảng 300.000 ha, năng suất 65 tấn/ ha. Phụ phẩm của mía đường rất dồi dào, chất lượng cao, thích hợp cho sản xuất nhiên liệu sinh học. Tuy nhiên  trên thực tế diện tích trồng mía năm nay chỉ đạt 265.000 ha, năng suất và chữ đường đều thấp hơn kế hoạch. Tổng sản lượng đường chỉ đạt dưới 1 triệu tấn/năm, do đó sản lượng rỉ đường cũng chỉ đạt 1,8 triệu tấn/năm và giá thành lên  khá cao, dùng cho sản xuất nhiên liệu lỏng sẽ khó có lãi.

Đối với sắn, diện tích trồng năm 2008 đạt 555,7 nghìn ha, năng suất bình quân 16,9 tấn/ha, đưa nước ta trở thành nước đứng thứ 7 trên thế giới về sản lượng sắn. Triển vọng về diện tích và năng suất sắn còn có thể được nâng cao hơn nữa nếu có quy hoạch vùng chuyên canh và có giải pháp bảo đảm giá đầu ra cho sản phẩm một cách hợp lý và ổn định lâu dài. Công ty nhiên liệu sinh học Phương Đông (OBF), một thành viên của PV OIL đã ký văn bản  thỏa thuận với sở Nông nghiệp tỉnh Bình Phước hợp tác trồng sắn trên địa bàn tỉnh này là một ví dụ về giải pháp theo hướng nói trên. Tuy nhiên việc phát triển quá nhanh các vùng nguyên liệu có thể gây ra những hậu quá môi sinh, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững, cân bằng sinh thái cho địa phương. Đầu năm 2010 đến nay, 1/3 tổng sản lượng sắn  ở  nước ta bị nấm bệnh vì đất xấu, lạm dụng phân vô cơ, giống bị thoái hóa, thời tiết không thuận. Thông thường độ tinh bột trong sắn củ lớn hơn 25% nhưng ở nước ta hầu hết  chỉ đạt ít hơn 20%, giá bán sắn củ lại cũng khá cao vì nhu cầu cho lương thực và chăn nuôi cũng ngày một tăng. Dến sau năm 2012 khi 3 nhà máy sản xuất cồn của PVN  đi vào hoạt động  thì cung sẽ không đủ cầu, giá sẽ còn tăng hơn nữa. Mặt khác cơ chế thị trường làm cho nông dân vốn quen với cách làm ăn cá thể, tiểu nông tự do, dễ dàng không tôn trọng tính ràng buộc pháp lý của hợp đồng làm cho khủng hoảng nguyên liệu xảy ra đột ngột và trầm trọng. Bên cạnh đó việc tổ chức thu mua trên một thị trường nhỏ lẻ, phân tán cũng không phải dễ dàng giải quyết.

Với nhà máy sản xuất tinh bột sắn công suất 200 tấn củ/ngày sẽ thải ra 100 tấn bã/ngày, có thẻ gây ô nhiểm môi trường nghiêm trọng. Việc chế biến chúng thành thức ăn gia súc có hiệu quả còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố kinh tế – kỹ thuật và xã hội, việc dùng bã sắn để sản xuất cồn ở nước ta chưa nơi nào làm.

Về thiết bị, công nghệ, các nhà máy sản xuất cồn công suất 100.000 lit/ngày hiện đại nhập từ nước ngoài sẽ đưa lại hiệu suất tạo cồn cao (1 lít cồn chỉ cần dưới 3 kg rỉ đường hoặc dưới 2,5 kg sắn lát); hầu hết đều tận dụng phụ phế phẩm từ sản xuất cồn để sản xuất các sản phẩm phụ như CO2 lỏng, thức ăn gia súc, phân bón hữu cơ, tận dụng nước thải sau chưng cất để sản xuất khí sinh học phục vụ sản xuất điện, nhiệt cho nhà máy, góp phần giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận.

Tuy nhiên chi phí đầu tư cao (khoảng 100 triệu USD/ nhà máy), nhu cầu nguyên liệu khối lượng lớn trong lúc giá mua ngày càng tăng, chi phí xử lý nước thải  lớn…

Về tiêu thụ sản phẩm, nhu cầu xăng dầu trong  tương lai gần sẽ rất lớn, nhiên liêu sản xuất từ dầu mỏ không đáp ứng đủ nên thị trường  nhiên liệu sinh học rất thuận lợi. Tuy nhiên nếu giá dầu mỏ không tăng quá cao như dự báo trong lúc giá thành sản xuất nhiên liệu sinh học lại cao và nhà nước giảm dần, tiến tới loại bỏ trợ cấp giá  thì khâu phân phối cũng sẽ có nhiều vấn đề phải đối mặt.

Bên cạnh các giải pháp tổng thể do Chính Phủ đã đưa ra, các nhà khoa học và các nhà sản xuất kinh doanh cần tiếp tục đề xuất các giải pháp cụ thể, phù hợp với diễn biến thực tế trong tương lai. Trong các giải pháp này không nên chỉ tập trung vào việc yêu cầu nhà nước giảm thuế, tăng thêm các chính sách ưu đãi mặc dù các điều đó là rất cần khi xây dựng một ngành sản xuất mới với vô số những khó khăn mà nên tìm các cách để tạo ra những công nghệ tiên tiến, phù hợp với môi trường tự nhiên – kinh tế – xã hội của Việt Nam, kết hợp tốt nhất giữa các nhà khoa học và các nhà quản lý –  sản xuất – kinh doanh, khuýến khích các doanh nghiệp  sử dụng các kết quả nghiên cứu trong nước bên cạnh việc tận dụng chuyển giao công nghệ hiện đại từ nước ngoài cũng như nâng cao hiệu quả của công tác tổ chức, quản lý cả của nhà nước lẫn doanh nghiệp.

Tương lai ngành nhiên liệu sinh học cũng như năng lượng mới, năng lượng thay thế rất sáng sủa vì hiệu quả tổng hợp của ngành này rất lớn, nên chắc chắn  chúng ta  sẽ đạt nhiều thành tựu  xuất sắc trong thời gian tới, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đưa nước ta  đi vào văn minh, hiện đại như cả nước đang kỳ vọng.

  • TS. Trần Ngọc Toản

  • Nguồn Vietnamnet

– Cristopher A.Simon.  Alternative Energy. Rowman&Littlefield Publishers Inc. 2007

– Hồ sỹ Thoảng, Trần Mạnh Trí. Năng lượng cho thế kỷ 21. nhà XBKHKT,2009

– Các tham luận của nhiều tác giả trong hội thảo “Chiến lược tăng tốc phát triển  trong lĩnh vực hạ nguồn” do Hội Dầu khí Việt Nam tổ chức ngày 11/9/2010.

QUẢNG CÁO

Tin liên quan:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *