Ô nhiễm lương thực và thực phẩm bởi kim loại nặng

QUẢNG CÁO

ngu_coc(Hóa học ngày nay-H2N2)-Ô nhiễm lương thực và thực phẩm bởi những tác nhân hóa học thể hiện ở các sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi và thuỷ sản ngày càng trở nên nguy hiểm. Ô nhiễm bởi các chất hoá học, đặc biệt là bởi các kim loại nặng, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, chất phụ gia, các loại bao bì… làm cho chúng bị giảm chất lượng hoặc trở thành độc hại với sức khoẻ con người.

* Ô nhiễm cadmi: Kim loại nặng cadmi, cũng như các kim loại nặng khác, xâm nhập vào các hệ sinh thái đất, nước, không khí từ nhiều nguồn khác nhau: khói bụi, nước thải của các xí nghiệp sản xuất chì, thiếc, sắt, thép…, nước thải trong ngành đúc điện, trong phân lân bón cho cây trồng, trong bùn thải của các trạm làm sạch nước, trong sự bào mòn lốp xe ô tô (cadmi làm xúc tác sự lưu hoá), trong các nhiên liệu diesel làm ô nhiễm lương thực, thực phẩm và nước uống.

Năm 1946, ở vùng Funchen thuộc quận Toyoma (Nhật Bản), xuất hiện một hội chứng với đặc điểm là biến dạng xương, dễ gãy xương, đau cơ, rối loạn thận, nhất là ở phụ nữ lớn tuổi sinh đẻ, làm hàng trăm người chết đã thu hút chú ý của giới y học trong vùng. Người bệnh thường bị dằn vặt bởi những cơn đau đớn, nên người Nhật gọi là bệnh Itai – Itai (bệnh đau đớn). Những nhà nghiên cứu đã phát hiện các bệnh nhân hấp thụ mỗi ngày 600mg cadmi do ăn gạo nhiễm nước sông Jinsu bị ô nhiễm bởi quặng và xỉ từ một nhà máy chế biến cadmi. Cũng ở Nhật Bản, vùng đồng bằng Phusan khá phì nhiêu, nhưng vào năm 1931, Công ty Khoáng sản khai thác mỏ kẽm mở Xí nghiệp luyện kim trên thượng lưu sông Sentony, nước thải của xí nghiệp chứa nhiều kẽm và cadmi làm nước của sông này bị ô nhiễm nặng. Các loài cá sống ở đây chứa hàm lượng cadmi cao gây nhiễm độc cho người. Năm 1955, ở huyện Phusan cũng xuất hiện bệnh lạ: ban đầu bệnh nhân thấy đau lưng, đau khớp xương. Sau đó, họ thấy đau toàn thân, nhất là đau ở vùng xương chậu và hai chân, ngay cả khi thở hay ăn uống (bệnh Itai-Itai). Tiếp đó, xương trong cơ thể của bệnh nhân bị gãy và dẫn đến tử vong. Kết quả khám nghiệm cho thấy bộ xương bị gãy ở 70 chỗ, cơ thể co ngắn lại 30cm. Sau khi nghiên cứu kỹ, các nhà khoa học đã phát hiện ra nguyên nhân của căn bệnh này cũng là do nhiễm độc cadmi. Từ 1963 đến 1977, ở huyện Phusan đã có 287 người bị chết vì bệnh này.

Năm 1965, nước sông Derwet ở Trandmania được cảnh báo bị ô nhiễm cadmi nặng vì các con sò ở vùng này chứa hàm lượng cadmi cao. Người nào ăn những con sò đó đều bị nôn mửa. Ở Hà Lan có ít nhất 7.000 khu vực bị ô nhiễm bởi cadmi, natri phosphat. Các loại rau trồng trong các khu vực đó đã tích tụ cadmi với hàm lượng cao, làm mỗi người dân ở đây phải hấp thụ đến 150 – 350 microgam (tiêu chuẩn vệ sinh cho phép của Tổ chức Y tế thế giới là 60 – 70 microgam/ngày).

Viện Quốc tế Quản lý nước (IWMI) đã tiến hành khảo sát đất và tài nguyên nước tại vùng Phra That Phadaeng và Mae Tao ở khu vực lòng chảo Huay Mac Tao (thuộc huyện Mac Sot, tỉnh Tak, Thái Lan) và kết luận: vùng này bị ô nhiễm cadmi hết sức nặng nề. IWMI cho biết trên 154 ruộng lúa của 8 làng trong khu vực đều bị nhiễm cadmi cao (trên 94 lần so với tiêu chuẩn an toàn quốc tế). Cụ thể, gạo ở khu vực này đã chứa từ 0,1 đến 44mg/kg, cao hơn nhiều lần tiêu chuẩn an toàn lương thực là 0,043mg/kg gạo. Ngoài ra, tại khu vực này, các loại rau như tỏi, đậu nành cũng đều chứa hàm lượng cadmi cao hơn từ 16 đến 126 lần so với tiêu chuẩn vệ sinh cho phép.

Theo Cục Kiểm soát ô nhiễm của Thái Lan, trong 1.180 triệu tấn gạo sản xuất tại huyện Mac Sot có đến 91% bị tích tụ cadmi, trong đó có 130 triệu tấn là không an toàn lương thực. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Thái Lan đã công bố loại gạo nổi tiếng Hương Lài (Jasmine) của vùng Phra That Phadaeng thuộc huyện Mac Sot, tỉnh Tak của nước này (từng đoạt giải thưởng trong nước các năm 2002-2003), đã chứa hàm lượng cadmi ở mức không thể chấp nhận được. IWMI dự báo nạn ô nhiễm gạo bởi cadmi đã ảnh hưởng đến 50.756 cư dân thuộc 8 làng trong khu lòng chảo nói trên và 106.413 cư dân ở huyện Mac Sot – những người trực tiếp tiêu thụ lương thực, thực phẩm từ các làng nói trên. Giám đốc Bệnh viện Sae Sol (Thái Lan) cho biết: qua hai vòng xét nghiệm, trong tổng số 1.850 cư dân địa phương, đã xác định 142 người bị nhiễm cadmi quá quy định, trong đó, 5 người có vấn đề về bệnh thận. Đến ngày 17/1/2004, tờ báo The Nation của Thái Lan lại tiếp tục đưa tin là Viện Quản lý nước của quốc gia này đã cho biết ở tỉnh Tak có 110.000 người có nguy cơ bị nhiễm độc cadmi. Sau khi thâm nhập vào cơ thể, cadmi tác động đến thận đầu tiên, gây rối loạn hoạt động của thận và gây ung thư thận. Ngoài ra, ung thư tuyến tiền liệt và ung thư phổi chiếm tỷ lệ khá cao ở nhóm người thường xuyên tiếp xúc với cadmi. Cadmi sau khi vào cơ thể cũng sẽ loại bỏ canxi trong xương, gây bệnh loãng xương, rạn xương làm xương bị giòn và dễ gãy, gây ra tư thế còng lưng.

Người ta ước tính, tổng lượng cadmi đổ vào đại dương lên tới 8.000 tấn/năm; trong đó, một nửa có nguồn gốc từ hoạt động của con người. Cadmi thường tích tụ với hàm lượng cao ở các loài thuỷ sản, nhất là tôm, cua, mực thẻ, bạch tuộc (hàm lượng cadmi ở chúng cao hơn cá). Trên động vật, thận và gan là cơ quan chứa cadmi cao nhất. Theo các chuyên gia Ba Lan, những tiêu chuẩn liên quan đến các kim loại nặng, nhất là cadmi và chì đã vượt gần 100 lần. Nói chung, nồng độ cao của cadmi (từ 27,7 đến 422mg/kg) và của thuỷ ngân (từ 0,4 đến 191mg/kg) cũng đã tìm thấy ở các động vật có xương sống vùng Nam Cực (hải cẩu, cá heo…). Ở Tây Ban Nha, vào mùa hè năm 1988, người ta đã tiến hành kiểm tra hàm lượng cadmi, thuỷ ngân và chì trong 31 loài cá, nhuyễn thể và giáp xác lấy mẫu từ 25 trạm ở dọc bờ biển Địa Trung Hải. Qua kiểm tra, hàm lượng cadmi ở loài vẹm ăn được Mytilus gallo provincialis đã tăng gấp 6 lần, ở các loài cá đối hàm lượng kim loại nặng tăng lên 30 lần và có thể gây nhiễm độc cho người qua chuỗi thức ăn (kết quả được công bố năm 1994). Ở nhiều quốc gia, nguồn nước uống bề mặt, nước uống lấy từ vòi nước cũng bị ô nhiễm bởi cadmi và có thể gây nhiễm độc trực tiếp cho người. Trước đây, tiêu chuẩn vệ sinh của cadmi đối với nước uống là 50 microgam/lit, nhưng từ năm 2003, được quy định lại là 25microgam/lit. Mỗi điếu thuốc chứa 1,5 – 2 microgam cadmi và người hút sẽ hít phải 10% số lượng này. Mỗi ngày hút một gói thuốc lá sẽ làm tăng gấp đôi lượng cadmi vào cơ thể và có thể gây ung thư phổi.

* Ô nhiễm chì: Kim loại nặng chì ở dạng muối như axetat chì, cacbonat chì… rất nguy hiểm bởi độc tính của chúng rất cao. Ngoài việc dùng các muối chì để tạo ra các màu đẹp trong pha sơn, pha xăng dầu, dùng làm chất màu trong công nghiệp sứ, nhuộm giấy màu… chì còn được dùng để hàn các lon đựng đồ hộp. Chính chất thải của công nghiệp sản xuất chì đã làm ô nhiễm đất, nước và không khí, rồi gây nhiễm độc cho người qua dây chuyền lương thực và thực phẩm.

Chì khác các kim loại khác ở chỗ nó có mặt trong tất cả các đại dương trên thế giới với hàm lượng cao. Từ 1961, người ta nhận thấy hàm lượng chì trong nước biển đã đạt tới mức độ cao do hoạt động công nghiệp, giao thông vận tải của con người và gây ô nhiễm cho hệ động – thực vật biển. Chẳng hạn năm 1986, khi tiến hành phân tích các loại hàu, tôm, ốc, sò ở biển Hồng Kông, Trung Quốc đã phát hiện thấy chì, thuỷ ngân, thiếc, antimon tăng lên liên tục trong các loài hải sản đó (hàm lượng chì cao nhất ở tôm cua, cá đối và vẹm). Điều đó khiến người ta lo ngại khả năng gây nhiễm độc cho người bởi các hải sản này chiếm vị trí quan trọng trong món ăn hàng ngày của người dân địa phương. Ở vùng Địa Trung Hải thuộc Tây Ban Nha cũng đã phát hiện 31 loài cá, nhuyễn thể, giáp xác có chứa hàm lượng chì, cadmi và thuỷ ngân tăng lên 30 lần từ mùa hè năm 1994 và có thể gây nhiễm độc cho người qua dây chuyền thực phẩm. Khi phân tích các lớp trầm tích ở các hồ tại Thụy Điển, người ta đã thấy sự gia tăng lớp chì ở đáy hồ xảy ra vào thế kỷ XIX và tăng nhanh trong thế kỷ XX do việc sử dụng xăng pha chì đạt mức cao nhất vào năm 1970. Vì vậy, nước hồ và các loại thuỷ sản ở đây đã bị ô nhiễm bởi chì.

Vào đầu thập kỷ 80, nhiều trẻ em ở Paris (Pháp) mắc một chứng bệnh rất giống nhau mà các bác sĩ nghi ngờ là do hội chứng rối loạn tiêu hoá. Kết quả kiểm tra dịch tễ học thực hiện tại Bệnh viện Troussean năm 1985 đã phát hiện một hiện tượng đáng sợ: hàm lượng chì trong máu của 2.600 trẻ em cao gấp nhiều lần tiêu chuẩn cho phép của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Nguyên nhân nhiễm độc chì ở trẻ em Pháp là do các em hay ăn những mảnh sơn tường nhà bị bong ra có vị ngọt. Bởi, sơn tường nhà chứa những hạt trắng, đó là axetat chì. Cứ ăn một mảnh sơn tường nhà hơi ngọt cơ thể các em sẽ hấp thụ 5.000mg chì mà khi vào ruột, dưới tác động của dịch vị, chúng sẽ chuyển thành clorua và gây nhiễm độc. Ở thành phố Pritsbone của Australia, nhiều trẻ em bị nhiễm độc chì do ăn phải sơn tường cũng đã được xác nhận. Ở Mỹ, theo điều tra, có đến 42 triệu nhà quét sơn tường có pha chì. Cuộc xét nghiệm tiến hành trong các năm 1976 đến 1980 cho biết mỗi năm người ta phát hiện thêm 40.000 trẻ em (từ 6 tháng tuổi đến 6 tuổi) bị nhiễm độc chì với hàm lượng cao hơn 3.000 microgam/lít máu do ăn những mảnh sơn tường.

Tác động gây nhiễm độc của chì qua nước uống đã được biết rõ. Ở Lyon (Pháp), trong năm 1989, nhiều ca nhiễm độc chì đã được chẩn đoán ở những ngôi nhà vẫn còn sử dụng hệ thống ống dẫn nước bằng chì. Nhiều ca nhiễm độc chì như vậy cũng đã xảy ra ở Anh, nhất là ở đô thị Glasgow. Năm 1991, ở nước Mỹ vẫn còn 32 triệu người được cấp phát nước bởi 130 – 660 hệ thống dẫn nước mà hàm lượng chì trong nước uống vượt tiêu chuẩn cho phép là 15ppb gây ra nhiều trường hợp nhiễm độc. Ở nước ta, hầu hết các thành phố vẫn còn sử dụng một phần hệ thống dẫn nước bằng chì. Sự nhiễm độc chì thường không biểu hiện bằng các dấu hiệu lâm sàng rõ rệt. Chì ảnh hưởng tới sự tổng hợp hemoglobin trong máu, làm cản trở sự vận chuyển oxi trong máu và có thể dẫn đến sự thiếu máu. Nó cũng gây ảnh hưởng đến sự chuyển hoá của tế bào, sự dẫn truyền thần kinh cũng như khả năng khử độc của gan, làm suy giảm trí tuệ người lớn. Điều ít được biết là chì làm tăng huyết áp ở phụ nữ mang thai. Chì ở liều lượng thấp cũng ngăn cản sự phát triển sinh lý và trí tuệ của trẻ sơ sinh và trẻ em. Liều độc của axetat chì là 1mg và của cacbonat chì là 2 – 4g đối với người lớn. Việc điều trị nhiễm độc chì rất phức tạp, tỷ lệ khỏi bệnh rất thấp.

* Ô nhiễm thuỷ ngân: Ở Nhật Bản, vào năm 1939, nhà máy Chisso đã đổ xuống vịnh Minamata một khối lượng chất xúc tác phế thải chứa thuỷ ngân và kim loại nặng. Khối lượng phế thải này bị dìm xuống đáy vịnh, không bị biến đổi làm cho nước vịnh và các loài hải sản sống trong vịnh bị ô nhiễm thuỷ ngân nặng. Trong khi đó, con người, động vật và chim ở đây không hay biết, vẫn ăn hải sản từ vịnh. Đầu tiên vào năm 1950, người ta quan sát thấy những con chim hải âu khi bay tự nhiên đâm đầu vào tường nhà hay dây điện, rồi xuất hiện những con mèo có dáng đi như nhảy múa và có những cơn điên. Ít lâu sau hiện tượng đó, một căn bệnh quái ác xảy ra trong cộng đồng dân cư sống quanh vịnh Minamata: những em bé sinh ra bị dị dạng. Chính thực phẩm từ hải sản của vịnh đã ảnh hưởng đến sự sinh sản của con người. Thuỷ ngân mêtin đã tích tụ ở tổ chức thần kinh, làm tổn thương chức năng não, gây ra rối loạn hành vi mà người Nhật gọi là bệnh Minamata gây xôn xao dư luận thế giới. Từ năm 1975, ở vịnh Minamata đã có 3.500 người mắc bệnh đó (nhất là người nghèo thường ăn cá), những năm sau đã tăng lên đến 10.000 người mà vẫn chưa dừng lại.

Vùng biển Hồng Kông của Trung Hoa bị ô nhiễm nặng thuỷ ngân, cadmi và chì là do chất thải của các nhà máy công nghiệp và hải sản ở đây chứa hàm lượng thủy ngân cao. Việc ăn các loại hải sản của vùng biển bị ô nhiễm nặng được xem là nguyên nhân dẫn tới sự tăng hàm lượng thuỷ ngân trong máu của cư dân địa phương. Khi nghiên cứu trên 150 cặp vợ chồng bị vô sinh và 26 cặp vợ chồng bình thường, các chuyên gia Trường Đại học Trung Hoa ở Hồng Kông đã rút ra được kết luận: hàm lượng thuỷ ngân trong máu của những cặp vợ chồng vô sinh khá cao, dẫn đến nguy cơ rối loạn sự sinh sản. Người ta nhận thấy hàm lượng thuỷ ngân đặc biệt cao ở loài cá ngừ và cá kiếm cũng như vây cá của các loài cá sống ở biển Hồng Kông. Dầu cá lấy từ cá sống ở vùng này cũng bị ô nhiễm bởi thuỷ ngân.

Hồ nước ngọt rộng nhất ở vùng đồng bằng phía Bắc Trung Quốc Baiyangdian (cách Bắc Kinh 100km), được gọi là “Viên ngọc sáng của Bắc Trung Quốc” cũng là nạn nhân của thuỷ ngân, asen và crôm. Hồ và các loài thuỷ sản ở đây bị ô nhiễm kim loại nặng do sự phát triển của công nghệ ở vùng này. Năm 1989, 143 tấn thuỷ ngân đã bị đổ vào các con sông ở nước Cộng hoà Kazhihstan (thuộc Liên Xô) làm nước các con sông và các loài cá bị ô nhiễm. Sự ô nhiễm thuỷ ngân của các hồ nước ngọt là một hiện tượng quen thuộc ở Phần Lan, Thụy Điển, Mỹ và Canada. Mặc dù những hồ đó ở xa đô thị, nhưng nguồn lợi thuỷ sản khai thác được tiêu thụ tại đây có thể nguy hại nghiêm trọng đến sức khoẻ của con người.

Việc đi tìm vàng bằng cách sử dụng muối thuỷ ngân để xử lý đất, bùn chứa vàng, tạo thành một “hỗn hống” tức là một hợp kim với những hạt vàng, cũng gây ô nhiễm nặng nề cho tài nguyên đất và nước. Để tách vàng ra, cần phải chưng cất thuỷ ngân. Thuỷ ngân trong quá trình “hỗn hống hoá” đã làm ô nhiễm đất và nguồn nước các con sông. Người ta tính rằng để có được 1kg vàng khai thác thì có đến 1,32kg thuỷ ngân thất thoát vào môi trường. Ở Brazil đã có 650.000 người, ở Tandania và Inđônêxia mỗi nước 25.000 người và ở Việt Nam đã có 150.000 người hay nhiều hơn thực hiện việc tìm vàng như vậy đủ để thấy mức độ gây ô nhiễm như thế nào, nhất là đối với nước các con sông và nguồn lợi thuỷ sản. Người ta tìm thấy thuỷ ngân trong những con cá ở sông ngoài vùng Amazon của Brazil, các con sông ở Tandania, Inđônêxia và ở Việt Nam. Điều này đã làm cho biết bao người sống ở hạ lưu vùng tìm vàng có nguy cơ bị nhiễm độc do ăn những con cá chứa hàm lượng thuỷ ngân cao đó. Một sự kiện ở Canada đã tác động và làm xáo trộn đời sống người da đỏ ở đây là dự án Hydro – Québec với những nhà máy bột giấy khổng lồ dùng thuỷ ngân mêtin để sản xuất, tẩy trắng giấy. Hậu quả của nó là làm cho các con sông ở vùng người da đỏ sinh sống bị nhiễm độc thuỷ ngân. Các loài cá, kiến đen – nguồn thức ăn chính của họ bị nhiễm độc. Họ bị mắc bệnh run và rụng tóc. Một tờ báo ở Lisbon – Bồ Đào Nha đã tiết lộ: “Tóc của các bà mẹ và trẻ em ở Camara de Labos, trên đảo Madeira, có nồng độ thuỷ ngân vượt quá xa ngưỡng được quốc tế chấp nhận…”. Người ta biết rằng thuỷ ngân là một chất độc đối nguy hiểm với hệ thần kinh, hệ sinh sản của con người.

* Ô nhiễm nhôm: Ô nhiễm nhôm luôn là một vấn đề ám ảnh các nhà môi trường và các nhà y học trên thế giới. Sự xâm nhập của nhôm vào cơ thể trong một thời gian dài đã làm xuất hiện và phát triển sự suy thoái trí tuệ do lão suy não theo kiểu bệnh Alzheimer (bệnh lú lẫn người già). Ở trạng thái tự nhiên, phần lớn các loại thực phẩm thường chứa dưới 5mg nhôm/kg. Tuy nhiên, một số thực phẩm như các loài ốc, rau húng, rau bina, đậu lăng… là những thực phẩm chứa nhiều nhôm, đặc biệt như chè có thể chứa hàm lượng nhôm lên đến 2g/kg. Từ những kết quả được tiến hành phân tích trên 200 loại thực phẩm, bộ môn Môi trường và Y tế cộng đồng của Khoa Y học Nancy (Pháp) đã tính toán rằng việc đưa lượng nhôm trung bình hàng tuần vào cơ thể là 30mg/kg thể trọng (bằng khoảng 7% liều hàng tuần được phép dung nạp – theo WHO).

Vậy thức ăn có vai trò gì không trong việc gây ô nhiễm nhôm cho con người qua dây chuyền thực phẩm? Việc nấu thực phẩm trong dụng cụ bằng nhôm, nhất là khi các loại thức ăn đó chứa các axit hữu cơ như cà chua, khế v.v… (nhất là ở nước ta có thói quen nấu canh chua, xào dưa chua…) đã làm tăng lượng nhôm từ dụng cụ nấu vào thức ăn. Một công trình nghiên cứu được công bố trên Tạp chí New Scientist vào tháng 11/1993 tại Mỹ, cho biết tên 416 người già trên 65 tuổi hàng ngày được ăn bằng thức ăn nấu bằng chảo nhôm có nguy cơ bị gãy xương háng và cổ xương đùi cao hơn hai lần do hiện tượng mất chất khoáng trong các xương đó. Đến thập kỷ 70 của thế kỷ trước, hiện tượng này cũng được quan sát thấy ở những người bị ô nhiễm nhôm mà máu phải được làm sạch kim loại bằng phương pháp thẩm tích. Các nghiên cứu đã cho thấy, sau khi hấp thụ vào cơ thể, nhôm ưu tiên cố định trong xương với tỷ lệ 39% và loại trừ canxi gây ra chứng loãng xương. Trong cơ, nhôm cũng chiếm tỷ lệ 39%, trong phổi 12% và trong não, máu, gan, tim, lách, thận, ống tiêu hoá chiếm tỷ lệ 1%. Tuy nhôm xâm nhập vào não chỉ 1% nhưng đã gây ra sự suy thoái não ở người lớn tuổi (bệnh lão suy não kiểu Alzheimer).

Trong Hội nghị Quốc tế lần thứ 6 tổ chức vào năm 1998 về bệnh Alzheimer, hai nhà nghiên cứu của Viện Y học Quốc gia và Nghiên cứu Y học INSERM của Pháp, đã công bố kết quả về mối quan hệ giữa bệnh não kiểu Alzheimer trên 3.411 người từ 65 tuổi trở lên sống ở vùng Gironde và Dordogne (Pháp), đi đến kết luận rằng: những người lớn tuổi sống ở các vùng mà nước chứa hàm lượng nhôm cao trên 100mg/l thì có nguy cơ bị bệnh suy não kiểu Alzheimer cao hơn hai lần. Nếu trong nước có một tỷ lệ oxit silic thì hình như có một tác động làm giảm nguy cơ phát triển bệnh nói trên. Người ta giải thích rằng phức hợp nhôm – silic trong nước được hấp thụ vào cơ thể kém hơn. Ngược lại độ toan của nước uống hình như là yếu tố làm tăng sự xâm nhập của nhôm vào cơ thể. Khi nước càng axit thì nguy cơ hấp thụ nhôm vào cơ thể càng tăng lên. Giáo sư Guy Berthon, Giám đốc Phòng Thí nghiệm hoá học – sinh học vô cơ và y học của Touloues, Pháp giải thích rằng: “Độ toan của môi trường làm tăng độ hoà tan của nhôm và nó vượt qua dễ dàng hàng rào của ống tiêu hoá để có mặt nhiều hơn trong huyết tương”.

Bệnh nhân bệnh lão suy não kiểu Alzheimer ban đầu có những khó khăn trong diễn đạt rồi xuất hiện những cử chỉ không kiểm soát được và những cơn động kinh. Không đầy 18 năm sau khi xuất hiện các triệu chứng đầu tiên, kết cục bi thảm không tránh khỏi đã xảy ra. Ở những bệnh nhân này, người ta thấy những rối loạn của chức năng thận, máu chứa tỷ lệ nhôm cao gấp 20 lần so với bình thường, nghĩa là 20 microgam/lít. Trong thập kỷ 70 của thế kỷ trước, người ta nhận thấy những người bị thiểu năng thận và máu bị nhiễm độc nhôm thì mắc bệnh lão suy não kiểu Alzheimer. Bệnh này ngừng lại khi máu được lọc bằng phương pháp thẩm tích, khi làm cho hàm lượng nhôm từ 30mg/lit giảm xuống còn 10mg/lit. Những thực nghiệm được tiến hành bởi nhóm của G.Philippe Van den Bosch ở Aguilar (Đại học Kitô giáo Louvrain, Bỉ) cho thấy khi cho chuột ăn nhôm trong 6 tháng và sau đó nghiên cứu tập tính của chúng trong mê cung, các con chuột này phải mất hai lần thời gian để tìm được lối ra so với các con chuột khác không cho ăn thêm nhôm. Giải phẫu các con chuột đó đã phát hiện nhôm có mặt trong não, cố định tại sừng Ammon và vỏ não là những vùng mà não tham gia vào quá trình ghi nhớ và tìm phương hướng. Một số thí nghiệm khác trên chuột cũng cho thấy việc cho chúng ăn nhôm một cách kéo dài đã dẫn tới hoại tử các tế bào hình sao (các tế bào của hệ thần kinh trung ương) ở não.

Vì sao nhôm lại được vận chuyển tới não? Thứ nhất, người ta cho rằng transferin là một protein tuần hoàn trong huyết tương của máu chứa sắt để phân phối cho các cơ quan trong cơ thể, đặc biệt là não. Nhôm đã bám vào transferin để đến não. Vì vậy, khi người ta cố làm cho chuột thí nghiệm thiếu sắt thì nhận thấy hàm lượng nhôm trong não của chúng càng cao hơn. Nguyên nhân thứ hai là một số axit amin như glutamic cũng được khuyến cáo là chất vận chuyển nhôm đến não. Những sự việc trên cho thấy sự tích tụ nhôm trong não đã làm gia tăng quá trình lão hoá não, gây hoại tử các tế bào hình sao của não. Nhiều phẫu thuật não của những người bị bệnh lão suy theo kiểu bệnh Alzheimer cho thấy sự có mặt của nhôm trong não, đó là những tổn thương đặc trưng của bệnh Alzheimer.

Ô nhiễm nhôm cho người cũng có thể thông qua sữa. Một phóng viên y học của tuần báo Anh The Observer (Người quan sát) ngày 20/11/1998 khẳng định rằng ở Anh sữa bột dùng cho trẻ em đã bị ô nhiễm nhôm, đôi khi nhiều hơn sữa mẹ 100 lần làm cho trẻ sơ sinh hấp thụ một lượng nhôm cao. Rất có thể sự tiếp xúc sớm và lâu dài kim loại nhôm trong nhiều năm đầu tiên của đời sống đã ảnh hưởng đến sự suy thoái nhanh chóng trí tuệ vào những năm cuối đời, nghĩa là dễ mắc bệnh Alzheimer. Vào cuối năm 1993, các nhà chức trách Anh đã cho tiến hành một cuộc điều tra về sự ô nhiễm nhôm trong thực phẩm của trẻ em và đã phát hiện ra hàm lượng nhôm rất cao trong một số loại sữa bột; trong đó, có một số trường hợp cao gấp 500 lần so với hàm lượng trong sữa mẹ.

Ở Mỹ, người ta cũng đã nghi ngờ có sự ô nhiễm nhôm trong sữa bột. Năm 1989, người ta đã mổ tử thi hai em bé và phát hiện hàm lượng nhôm rất cao ở não của hai em bé đó. Những nghiên cứu khoa học tiến hành ở Mỹ tại các xí nghiệp sản xuất nhôm đã đi đến kết luận: khi hít phải nhôm bụi vào phổi với thời gian dài cũng gây ra nguy cơ suy thoái não theo kiểu bệnh Alzheimer. Việc xâm nhập nhôm vào cơ thể còn do các loại thuốc chống toan để làm nhẹ các vết bỏng của dạ dày, cũng như các loại thuốc khử mùi mồ hôi (như hôi nách) làm ngăn cản sự thoát mồ hôi. Các loại thuốc chữa bỏng dạ dày chứa các loại muối nhôm có tác dụng trung hoà lượng axit tăng lên trong dạ dày. Những người uống loại thuốc đó hàng ngày đã hấp thụ một lượng nhôm cao gấp 5 lần so với lượng nhôm chứa trong thức ăn hàng ngày.

Năm 1996, một nghiên cứu lâm sàng về các loại thuốc chống toan đã cho thấy mối tương quan giữa việc dùng thuốc băng vết loét dạ dày với sự có mặt của hàm lượng nhôm cao trong não. Tháng 5/1988, một tạp chí nhi khoa ở Mỹ đã nói đến trường hợp một bé gái 9 tuổi bị chết vì bị suy thoái não. Trong thời gian mang thai em bé, người mẹ đã uống khoảng 15g hydroxyt nhôm. Đến 9 tuổi, não em bé chỉ cân nặng được 650g, nghĩa là bằng một nửa so với bình thường. Một nghiên cứu sau đó của phòng thí nghiệm độc chất học và vệ sinh ứng dụng của Khoa Dược học ở Bordeaux (Pháp) đã cho thấy trên chuột, nhôm đã vượt qua hàng rào nhau thai và tích tụ lại trong não của bào thai. Những loại thuốc khử mồ hôi làm hạn chế sự bài xuất mồ hôi phần lớn chứa khoảng 20% clorua nhôm. Vào thập kỷ 90 của thế kỷ trước, nhóm nghiên cứu của giáo sư Edmond Creppy, phòng thí nghiệm độc chất hoá học và vệ sinh ứng dụng của Khoa Dược học ở Bordeaux (Pháp) cũng cho thấy trên chuột, nhôm hấp thụ qua da và xâm nhập dễ dàng vào cơ thể khi uống, gây ra sự có mặt của nhôm trong máu, nước tiểu và não. Năm 1990, một nghiên cứu dịch tễ học ở Mỹ đã phát hiện mối tương quan dương tính giữa nguy cơ xuất hiện bệnh Alzheimer và việc sử dụng kéo dài loại thuốc khử mồ hôi.

Nhìn chung, ô nhiễm lương thực và thực phẩm bởi các kim loại nặng là khá nghiêm trọng. Các hoạt động của con người, hoạt động của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải đã tác động mạnh mẽ đến môi trường đất, nước, không khí và sinh vật, từ đó gây ô nhiễm lương thực, thực phẩm. Vì thế, cần tăng cường công tác đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm và mỗi người chúng ta cần phải có ý thức hơn, hành động tích cực hơn trong công tác bảo vệ môi trường sống./.

Nguyễn Phước Tương

Nguồn Hoahocngaynay.com/KHCN Nghệ An

QUẢNG CÁO

Tin liên quan:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *