Sử dụng chất gây mê trong nuôi trồng thủy sản

QUẢNG CÁO

(H2N2)-Bài viết tóm tắt nội dung kỹ thuật của hội thảo “Nguyên lý ứng dụng thuốc gây mê trong nuôi trồng thủy sản”, tổ chức tại Cần Thơ, ngày 1/12/2010.

Ở nước ta từ lâu, dân nhiều vùng đã biết sử dụng cây duốc cá (Derris Tonnkinensis) để gây mê cá ở hồ ao, sông, suối nhằm đánh bắt dễ dàng hơn hoặc diệt cá tạp trong quá trình chuẩn bị ao nuôi. Trên thế giới, kỹ thuật gây mê mới được ứng dụng trong nuôi trồng thủy sản khoảng 60 năm lại đây để hạn chế làm trầy xước và giảm stress khi cần bắt giữ, vận chuyển thủy sản thủy sản, khi tiêm vắc xin, làm thủ thuật sinh sản nhân tạo….Bài viết tóm tắt nội dung kỹ thuật của hội thảo “Nguyên lý ứng dụng thuốc gây mê trong nuôi trồng thủy sản”, tổ chức tại Cần Thơ, ngày 1/12/2010.

Tác động của chất gây mê

Để gây mê cho thủy sản theo phương pháp tắm, trước hết hòa tan chất gây mê trong nước tắm, sau đó thả cá, hoặc tôm cần gây mê vào nước. Chất gây mê thâm nhập qua  tơ mang  cá  trong  hô hấp, hòa vào máu và chuyển lên não, tác dụng làm cho cá chuyển sang trạng thái mê. Cá trầm tĩnh dần, hoạt động chậm lại, sau đó bị mất cân bằng và không phản ứng lại khi bị bắt giữ, đụng chạm. Trong thời gian này, nhịp tim và hô hấp của cá cũng chậm lại tùy theo  liều  lượng  chất  gây mê  và thời gian gây mê.

Mặc dù kỹ thuật gây mê cho thủy sản không quá phức tạp và cũng không đòi hỏi đào  tạo  các bác  sĩ và kỹ  thuật viên như đối với người, tuy nhiên những hiểu biết để thực hành đúng kỹ thuật gây mê cũng rất cần thiết, vì nếu sử  dụng  không  đúng  loại  chất gây mê, hoặc  sử dụng quá  liều, thời gian gây mê quá dài có  thể làm  cá  chết  hàng  loạt,  gây  tổn thất kinh tế lớn.

Chuẩn bị gây mê

Không cho cá ăn  trong 12-24 giờ trước khi gây mê để bảo đảm trong  dạ  dày  hoàn  toàn  trống rỗng,  tránh  cá bị ựa  thức  ăn  ra. Khi bắt cá, chú ý giữ tay luôn ướt và thao tác nhẹ nhàng để không gây  trầy xước da  cá. Phải bố  trí công  việc  sao  cho  người  thực hiện các thao tác trong quá trình gây  mê  không  bị  chi  phối  bởi những công việc khác, nhằm duy trì thời gian gây mê ngắn nhất.

Kiểm tra, duy trì các thông số môi  trường  như  nhiệt  độ,  hàm lượng  ôxy  hòa  tan,  độ  pH,  độ mặn,  độ  cứng  trong  bể  gây mê giống với môi trường nước nuôi để tránh gây sốc cho cá. Nhiệt độ không được chênh lệch quá 20C. Kiểm  tra  hàm  lượng  NH3,  khử sạch  cặn  bẩn  trong  bể  gây mê. Phần lớn chất gây mê có tính axit làm  giảm  pH  của  môi  trường, có  thể  sử  dụng muối  đệm  như sodium bicarbonate để  tăng pH đến giá trị phù hợp. Bố trí sục khí liên tục để duy trì hàm lượng ô xy hòa  tan  trong môi  trường nước.

Chọn  chất  gây mê  phù  hợp (có được cho phép  sử dụng cho cá hay không?), điều  chỉnh  liều lượng theo nhiệt độ, độ mặn, độ pH, hàm  lượng ôxy hòa  tan của nước; cũng như loài, kích cỡ, sinh khối và mật độ  cá  trong bể. Để bảo đảm quản  lý được tác dụng của chất gây mê, không nên gây mê  với  sinh  khối  cá  vượt  quá 80g/lít (80kg/m3).

Điều  chỉnh  liều  gây  mê theo mục đích gây mê. Khi vận chuyển  trong  thời  gian  dài,  chỉ nên sử dụng liều thấp để đưa cá vào trạng thái mê nhẹ, nhằm làm giảm hoạt động và quá trình trao đổi  chất  nhưng  vẫn  giữ  được trạng thái cân bằng.

Cá bố mẹ có độ béo cao, chất gây mê có thể bị giữ  lại  lâu hơn trong lớp mỡ và phân hủy chậm, gây ra tác dụng dài hơn so với cá con, do đó liều gây mê cho cá bố mẹ phải thấp hơn so với liều gây mê cá con.

Theo dõi quá trình gây mê

Trong quá trình thao tác, cần quan sát chặt chẽ  trạng  thái của cá  để  xử  lý  khắc  phục  kịp  thời nếu  có  sự  cố,  tránh  trường  hợp gây mê quá liều hoặc quá lâu gây chết  cá. Kinh  nghiệm  cho  thấy, thời gian  tác dụng  của  chất gây mê phụ thuộc vào loài cá, chẳng hạn cá hồi chuyển sang trạng thái mê rất nhanh, trong khi cá rô phi phải qua quá trình chuyển trạng thái khá dài. Diễn biến biểu hiện của  cá  trong  quá  trình  gây mê được mô tả trong Bảng 1.

Hồi sức sau gây mê

Chất gây mê sau quá trình tác dụng sẽ bị phân hủy, quay trở lại máu và bị thải ra môi trường qua hô hấp của cá. Khi cá được đưa vào môi  trường  nước  sạch mới, thuốc mê bị bài thải hết, cá sẽ dần trở  lại  trạng  thái  bình  thường. Do đó, ngay sau khi hoàn thành các  thao  tác  cần  thiết  (như  tiêm vắcxin, vuốt  trứng, vận chuyển, …)  cần  chuyển  cá  sang  bể  nước sạch để hồi sức càng nhanh càng tốt. Bảng  2 mô  tả  các  giai đoạn hồi tỉnh của cá sau gây mê.

Cũng  giống  như  bể  gây mê, cần chuẩn bị trước bể hồi sức với nước sạch và có các thông số môi trường giống với môi trường nước trong bể gây mê, duy trì sục khí liên tục. Sau khi hồi sức, chuyển ngay  cá  trở  lại  công  trình  nuôi.

Yêu cầu chất gây gây mê

Chất  gây mê  lý  tưởng để  sử dụng  trong nuôi  trồng  thủy sản phải  đáp  ứng  các  yêu  cầu  tác dụng gây mê nhanh  (từ 1 đến 5 phút),  thời gian hồi sức ngắn  (ít hơn 5 phút), không độc với thủy sản  và  người  sử  dụng,  an  toàn với môi trường, dễ sử dụng, sẵn có, dễ mua, giá thành không cao.

Chất  gây  mê  phải  chuyển  hóa hoặc  bài  tiết  nhanh,  thời  gian phân  hủy  ngắn,  không  không để lại di chứng, tồn dư (hoặc tồn dư không đáng kể) trong các mô trong cơ thể.

Mặc  dù  có  nhiều  chất  gây mê,  nhưng  chỉ  có  một  số  chất được  phép  sử  dụng  đối  với thủy  sản  nuôi  với  những  mục đích  khác  nhau.  Hiện  nay, Mỹ và  các  nước  châu  Âu  chỉ  cho phép sử dụng duy nhất  tricaine methanesulphonate  (MS-222 hay TMS) để gây mê cho cá thực phẩm. MS-222 có công thức hóa học  là  C10H15NO5S,  là  chất  gây mê dẫn xuất  từ  cocain, được  sử dụng rộng rãi nhất  trên  thế giới với  độ  an  toàn  cao  cho  nhiều loài cá và  tôm. Chất này còn có nhiều  tên gọi khác như  tricaine, methane  sulfonate,  metacaine, ethyl m-aminobenzoate, …

TMS  dạng  bột  màu  trắng, hàm lượng tan tối đa trong nước 11%,  có  thể  hòa  tan  trực  tiếp trong  bể  gây  mê  và  có  thể  sử dụng với dung dịch đệm sodium bicarbonte  để  điều  chỉnh  pH. Cũng  có  thể  pha  trước  dung dịch gốc theo tỷ lệ 1g TMS và 1g sodium  bicarbonate  (nếu  cần) trong  100ml  nước  cất.  Khi  sử dụng,  pha  10ml  dung  dịch  gốc trong  1l  nước  cất  sẽ  được  nước gây  mê  có  nồng  độ  100mg/l. Bảng 3 nêu ví dụ về liều gây mê sử  dụng  cho một  số  loài  cá  với các mục đích khác nhau.

Ngoài  MS-222,  một  số  chất gây mê khác cũng được sử dụng đối  với  thủy  sản  nuôi,  nhưng chỉ  đối  với  thủy  sản  làm  cảnh, không được làm thực phẩm, như benzocaine,  2-phenoxyethanol. Dầu đinh hương (clove oil) chiết xuất từ thân, lá và chồi cây đinh hương (Eugenia caryophylla) cũng là loại chất gây mê thường dùng cho cá cảnh giá trị cao.

Hoàng Thanh

Biên dịch theo TS Lydia Brown, TGĐ Pharmaq

Nguồn vietfish.org

Chia sẻ:

QUẢNG CÁO

Tin liên quan:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *