Công nghiệp hoá chất Việt Nam và định hướng phát triển

QUẢNG CÁO

Công nghiệp hóa chất là ngành chủ chốt trong sản xuất các hóa chất công nghiệp. Đây là tâm điểm cho nền công nghiệp hiện đại, vì bất kì ngành nghề nào đều cần đến.

Công nghiệp hóa chất điển hình trong việc chuyển đổi các vật liệu thô như dầu, khí thiên nhiên, nước, kim loại và hóa chất thành hơn 7000 sản phẩm hóa chất khác nhau.

Ngành công nghiệp hóa chất và công nghiệp nhẹ có liên quan mật tiết với nhau, công nghiệp hóa chất hỗ trợ rất nhiều ngành công nghiệp khác nhau.

Đặc điểm của ngành công nghiệp hóa chất là tính đa đạng về sản phẩm phục vụ cho tất cả các ngành kinh tế kỹ thuật. Từ đó ngành công nghiệp này có thể khai thác mọi thế mạnh tài nguyên của đất nước từ khoáng sản, dầu khí tới sản phẩm, phụ phẩm và thậm chí cả phế thải của công nghiệp, nông nghiệp.

Cong nghiep hoa chat

Thực trạng ngành hóa chất công nghiệp nước ta hiện nay

Các ngành học công nghiệp hóa chất được quan tâm và yêu cầu sinh viên rất cao, những người học ngành hóa chất không chỉ có sức kiên trì vượt trội mà còn có năng lực.

Việc sử dụng hóa chất trong các ngành công nghiệp, các khâu sản xuất, các xí nghiệp, nhà xưởng, xí nghiệp may, sản xuất lương thực thực phẩm đã dần quen thuộc đối với người dân Việt…

Ngành công nghiệp hóa chất phổ biến, đạt nhiều thành tự và đã trở thành ngành kinh tế trọng điểm của Việt Nam.

Chợ Kim Biên tại thành phố Hồ Chí Minh là ví dụ điển hình, nơi đây cung cấp, kinh doanh tất cả các loại hóa chất, cho tất cả ngành nghề.

Ngoài ra còn có nhiều doanh nghiệp sản xuất quy mô lớn hơn.

Xem thêm: Quy hoạch ngành công nghiệp hóa chất Việt Nam đến năm 2030

Lịch sử phát triển của công nghiệp hóa chất

Hóa chất đầu tiên được sản xuất là Axit Sunfuric, được phát minh và sản xuất số lượng lớn. Năm 1736, nhà dược sĩ Joshua Ward đã phát triển một quy trình sản xuất có liên quan đến nồng độ muối, cho phép oxy hóa lưu huỳnh và kết hợp với nước. Đây là lần đầu tiên có quy trình sản xuất axit sulfuric trên quy mô lớn. John Roebuck và Samuel Garbett là những người đầu tiên thành lập một nhà máy quy mô lớn ở Prestonpans, Scotland vào năm 1749, tại đó sử dụng các buồng ngưng tụ bằng chì để sản xuất axit sulfuric.

Tại Việt Nam, công nghiệp hóa chất cũng ra đời rất sớm như các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ khác.

Về ngành công nghiệp hoá chất, Việt Nam được xây dựng trên quy mô lớn bắt đầu từ năm 1954. Trải qua hơn một thập kỷ cùng với sự phát triển nhanh chóng, ngành công nhiệp Việt Nam đã trở thành một ngành kinh tế về kỹ thuật độc lập.

Từ năm 1980 – 1985, báo cáo ngành hóa chất việt nam là một trong những ngành thể hiện rõ tính chủ đạo của nền công nghiệp quốc doanh. Các doanh nghiệp của nhà nước đảm bảo được 70% tổng giá trị sản lượng toàn ngành. Năm 1985, nó chiếm tỉ trọng cao trong toàn bộ ngành công nghiệp của Việt Nam.

Bắt đầu từ thời kỳ đổi mới 1986, nền công nghiệp hoá chất nước ta đã phát triển ổn định. Tốc độ tăng trưởng cao nhất vào thời kỳ 1991 – 1995, đạt mức ở 20%/năm. Những năm cuối thế kỷ XX, ngành công nghiệp hoá chất nước ta cũng tăng trưởng ở tất cả các thành phần kinh tế.

Sản phẩm công nghiệp nhựa là thùng phuy 220l, có công dụng chứa đựng các hóa chất công nghiệp, chỉ xài 1 lần.

Các chuyên ngành và sản phẩm chính của công nghiệp hoá chất ở Việt Nam là phân bón, hoá chất bảo vệ thực vật, chất tẩy rửa, hoá chất cơ bản, sản phẩm cao su, nhựa, điện hoá, sơn và chất dẻo.

Ngành hóa chất những năm gần đây trở thành mũi nhọn phản ánh sự phát triển công nghiệp một quốc gia. Phát triển về kinh tế kể từ thập niên 1950 đã khẳng định vai trò ngành hóa chất công nghiệp.

Điều này trở nên rõ ràng, sự cạnh tranh giữa các quốc gia, các ngành công nghiệp và các công ty trên toàn cầu. Lợi thế so sánh các quốc gia đã trở thành một vấn đề không còn chủ yếu dựa trên lợi thế về tài nguyên nữa.

Quá trình này được xuất phát từ lịch sử của ngành công nghiệp hóa chất kể từ thập niên 1850. Sự phát triển của ngành hóa chất công nghiệp kéo theo sự phát triển của nhiều ngành khác. Chính sách mà chính phủ duy trì và cải thiện tốc độ tăng trưởng và mức sống của từng đất nước.

Giai đoạn 1958-1960, phương hướng phát triển của Công nghiệp hoá chất (bao gồm cả sản xuất vật liệu xây dựng) trong thời kỳ này là:

– Sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu phục vụ nông nghiệp.

– Phát triển mạnh vật liệu xây dựng đáp ứng nhu cầu xây dựng.

– Đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm phục vụ các ngành kinh tế khác (acqui, hơi kỹ nghệ, gạch chịu lửa v.v…)

– Đáp ứng nhu cầu dân sinh.

Trong giai đoạn này, Công nghiệp hoá chất là một trong những ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao nhất.

Về phân bón, từ sản lượng 6.000 tấn phốt phát năm 1955, thì năm 1960 đã đạt 541,4 nghìn tấn, trong đó apatit là 490 nghìn tấn và phốt phát nghiền là 49,7 nghìn tấn ( tăng hơn 90 lần).

Về xi măng, từ 8,4 nghìn tấn năm 1955, sản lượng năm 1960 đã đạt 407,9 nghìn tấn (tăng gần 50 lần).

Đặc biệt, trong thời kỳ này Công nghiệp hoá chất đã bắt đầu đưa ra thị trường hai mặt hàng tiêu dùng mới, đó là săm lốp xe đạp và đồ dùng bằng nhựa.

Nhìn chung, trong toàn bộ thời kỳ khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế kéo dài 6 năm, Công nghiệp hoá chất đã tiến một bước dài theo hướng phục vụ nông nghiệp, xây dựng cơ bản và tiêu dùng.

Trong bước đầu của nền công nghiệp Việt Nam, Công nghiệp hóa chất tại các địa phương có một vai trò rất quan trọng trong việc đáp ứng yêu cầu về mặt hàng tiêu dùng của nhân dân (xà phòng, thuốc đánh răng, sơn)… Thậm chí 45 tấn thuốc trừ sâu đầu tiên sản xuất tại Việt Nam vào năm 1960 cũng là của công nghiệp hoá chất địa phương.

Thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965)

Đây là thời kỳ mà những kết quả đạt được của Công nghiệp hoá chất tuy chưa lớn, nhưng đối với một đất nước vừa thoát khỏi những năm dài chiến tranh, một đất nước nghèo nàn và lạc hậu, thì những thành tựu đạt được thật là to lớn và đáng tự hào.

Nhờ có 2 nhà máy phân bón, kể từ năm 1961, lần đầu tiên nước ta đã sản xuất được phân lân chế biến. Sản lượng phân hoá học trong năm 1964 , năm cao nhất của thời kỳ kế hoạch, là 205,26 nghìn tấn, trong đó supe phốt phát là 135,88 nghìn tấn.

Sản lượng apatit nguyên khai cũng tăng nhanh chóng lên đến mức cao nhất vào năm 1964, đạt 864 ngàn tấn, trong đó 7.400 tấn được nghiền làm phân bón.

Trong thời kỳ này Công nghiệp hoá chất cũng bắt đầu sản xuất nhiều thuốc trừ sâu.

Ngành hóa chất cơ bản cũng bắt đầu hình thành với các sản phẩm như axit sunfuric, axit clohyđric, xút lỏng, clo lỏng.

Ngành năng lượng điện hóa đã bắt đầu cung cấp pin và acqui cho quốc phòng, đáp ứng nhu cầu của các ngành kinh tế và tiêu dùng.

Ngành công nghiệp cao su cũng bắt đầu sản xuất được lốp ôtô với sản lượng ban đầu là 22,5 nghìn bộ (năm 1964) và sau đó, đưa lên 29 nghìn bộ (năm 1965) chưa kể một số lượng lớn lốp đắp, phục vụ kịp thời cho chiến đấu và sản xuất. Các mặt hàng tiêu dùng cũng tăng nhanh sản lượng.

Trong lĩnh vực vật liệuxây dựng, sản lượng xi măng tăng đáng kể.

Kết thúc kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, mặc dù chịu nhiều tổn thất trong chiến tranh phá hoại của Mỹ, nhưng Công nghiệp hóa chất và vật liệu xây dựng vẫn tiếp tục phát triển, chiếm vị trí quan trọng trong công nghiệp. Cơ cấu ngành cũng có nhiều thay đổi. Lĩnh vực sản xuất tăng nhanh. Chúng ta đã có Công nghiệp hoá chất vô cơ cơ bản và năng lượng hoá học.

Đã hình thành ba khu công nghiệp hoá chất tập trung ở các khu vực :Hà Nội, Vĩnh Phú (Việt Trì – Lâm Thao) và Hải Phòng.

Thời kỳ chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ (1965 – 1975)

Sản phẩm quan trọng nhất trong thời kỳ này là phân lân. Các sản phẩm trọng yếu khác của ngành đều phục hồi nhanh và vượt xa mức trước chiến tranh.

Trong 20 năm xây dựng và phát triển, từ hòa bình lập lại đến năm 1975, Công nghiệp hoá chất đã có bước phát triển rất to lớn. Về cơ cấu ngành, đã hình thành nhiều thành phần kinh tế – kỹ thuật thiết yếu trong nền kinh tế quốc dân:

  • Công nghiệp sản xuất phân bón, thuốc trừ dịch hại và các hoá chất phục vụ nông nghiệp khác;
  • Công nghiệp mỏ phục vụ ngành hoá chất;
  • Công nghiệp cao su;
  • Công nghiệp hoá chất cơ bản;
  • Công nghiệp pin – acquy;
  • Công nghiệp xà phòng…
  • Các hóa chất cơ bản như xút, clo (cho công nghiệp giấy, công nghiệp thực phẩm và xử lý nước), axit sunfuric ( cho công nghiệp acquy,sản xuất phèn) v.v… cũng hoàn toàn do các cơ sở quốc doanh đảm nhiệm. Tất cả các hoá chất và sản phẩm liên quan đến hoá chất cần thiết cho quốc phòng đều do Tổng cục Hóa chất sản xuất theo kế hoạch đặc biệt nhằm đáp ứng các yêu cầu cụ thể.
  • Ngoài sản xuất, khu vực nghiên cứu thiết kế cũng được hình thành. Trong ngành có hai cơ quan khoa học là Viện Hoá học Công nghiệp (thành lập năm 1955) Và Viện Thiết kế Hoá chất (thành lập năm 1967).Ngành có một trường đào tạo kỹ thuật viên, hai trường đào tạo công nhân kỹ thuật và một trường quản lý kinh tế.

Giai đoạn phát triển 1976-1985

Trong kỳ kế hoạch này, nhờ Nhà máy Phân lân Ninh Bình đi vào sản xuất và Nhà máy Supe phốt phát Lâm Thao tiếp tục mở rộng, đưa công suất lên 300 nghìn tấn/năm, nên sản lượng phân lân chế biến năm 1985 đã tăng gấp 1,5 lần so với năm 1980. Sản lượng thuốc trừ sâu cũng tăng gấp 2,2 lần. Các sản phẩm chủ yếu khác như các hóa chất vô cơ cơ bản và nhất là các sản phẩm tiêu dùng thiết yếu của ngành như săm lốp xe đạp, pin, chất tẩy rửa v.v… đều tăng sản lượng và số mặt hàng. Tuy nhiên, các sản phẩm phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu đều bị giảm. Điển hình là săm lốp ôtô, thuốc đánh răng và xà phòng thơm.

Thời kỳ kế hoạch 5 năm (1991 – 1995)

Mặc dù khu vực ngoài quốc doanh phát triển mạnh, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhưng các doanh nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo, chiếm tỷ trọng 74,4%, trong đó hai Tổng công ty Hóa chất chiếm 43%.

Khu vực công nghiệp địa phương trong sản xuất với số lượng doanh nghiệp còn rất ít, nhưng cũng có một vị trí đáng kể trong ngành. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 1995 của các liên doanh đã chiếm 13,6% giá trị toàn ngành.

Giai đoạn năm 1995 -2009

Giai đoạn này, Tổng Công ty Hóa chất Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, đã tăng nhanh năng lực sản xuất, kinh doanh, tiếp tục đóng góp lớn cho việc bảo đảm cung ứng nhiều sản phẩm hàng hoá thiết yếu cho nền kinh tế; tạo nguồn thu cho ngân sách; cùng với các Tập đoàn và Tổng Công ty nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong ngành sản xuất phân bón và một số lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Quy mô vốn sở hữu của Tổng Công ty từ 2006 đã tăng lên đáng kể. Năm 2006, tổng vốn chủ sở hữu của Tổng Công ty là 4.342 tỷ đồng, cuối năm 2008 đã đạt 6.818 tỷ đồng, tăng 56,79; các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu đều vượt so với kế hoạch đề ra, duy trì được tốc độ tăng trưởng. Tính đến thời điểm 30 tháng 11 năm 2009, ngoài Công ty mẹ, Tổng Công ty có 10 Công ty con mà Tổng Công ty giữ 100% vốn điều lệ, 10 Công ty trên 50% vốn điều lệ, 11 Công ty liên kết và 4 Công ty liên danh với nước ngoài, một Trường cao đẳng và một Viện nghiên cứu, phát triển.

Những năm gần đây, trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập ngày càng sâu rộng, phải cạnh tranh ngày càng gay gắt cả trong nước và quốc tế, Tổng Công ty có những phát triển vượt bậc và toàn diện trên các mặt sản xuất, kinh doanh, đầu tư xây dựng cơ bản, lao động sáng tạo, ứng dụng thành tựu KHCN, bảo vệ môi trường, công tác xã hội từ thiện ….

Tổng Công ty đã góp phần đảm bảo an ninh lương thực đất nước, mỗi năm cung cấp cho nông dân 1,4 triệu tấn phân chứa lân gồm supe photphat và phân lân nung chảy; đáp ứng 100% nhu cầu của cả nước; khoảng 1,4 – 1,6 triệu tấn phân NPK các loại và 150 nghìn tấn phân đạm. Ngoài phân bón, các ngành như cao su (săm lốp ôtô, xe đạp, xe máy); chất giặt rửa, các sản phẩm điện hóa (pin, ắcquy), hoá chất cơ bản (xút, axít …) cũng được phát triển. Trong 10 năm 1998-2008, tốc độ tăng trưởng bình quân của Tổng Công ty là 11,13%, chiếm tỷ trọng 10%, giữ vị trí đáng kể trong toàn ngành công nghiệp.

Ngày 23/12/2009, Thủ tướng Chính Phủ ban hành Quyết định số 2180 TTg thành lập Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (VINACHEM) và ngày 20 tháng 1 năm 2010, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam đã làm lễ ra mắt tại Hà Nội. Tập đoàn Hóa chất Việt Nam là doanh nghiệp đa sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước là chi phối, hoạt động theo mô hình Công ty mẹ – Công ty con, được thành lập theo trên cơ sở xắp xếp, tổ chức lại Tổng công ty Hóa chất Việt Nam.

Năm 2000 giá trị tổng sản lượng của công ty đạt 6.227 tỉ đồng, tăng 19,7% so với năm 1999. (theo Tổng Công ty Hoá chất Việt Nam)

Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới, những cải cách kinh tế đã thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, phát triển công nghiệp – nông nghiệp. Nhu cầu về nguyên liệuhoá chất cũng ngày càng tăng với tốc độ tăng trưởng sản xuất hoá chất hằng năm là 15%. Sự tăng trưởng kinh tế đó đẫn đến gia tăng lượng chất thải và phát sinh nhiều chủng loại chất thải độc hại.

Tình trạng đó đã tác động đến môi trường. Việt Nam đang trong tình trạng thiệt hại về môi trường ở mức cao (khoảng 10% GDP) và giá trị này đang có khuynh hướng gia tăng (theo TS. Trương Mạnh Tiến). Các dây chuyền sản xuất hoá chất hoặc có sử dụng hoặc thiếu nhiều trang bị an toàn. Công nghệ sản xuất sạch hơn trong sản xuất hoá chất còn chưa được áp dụng rộng rãi.

Nhiều hoá chất độc hại trong dây chuyền chưa được thay thế. Các cơ sở sản xuất còn thiếu hệ thống xử lý chất thải.

Nổi bật là vụ rò rỉ khí mêtan ngày 11/01/1999 ở mỏ than Mạo Khê, Quảng Ninh làm 19 người chết, 12 người bị thương; hay vụ ngạt khí mêtan ngày 06/07/2000 tại công ty thủy sản Cam Ranh, Khánh Hoà làm 4 người chết (theo “hiện trạng môi trường Việt Nam năm 2000”, báo cáo của Bộ KHCN&MT trình Quốc hội khoá X). Vấn đề môi trường ở các nhà máy sản xuất hoá chất thường xuyên được đặt ra. Tại mỗi nhà máy cần có những đánh giá tình trạng môi trường và hiệu quả của những biện pháp kiểm soát môi trường tại cơ sở.

Công nghiệp Việt Nam đặt ra nhu cầu về xử lý – tận dụng chất thải của ngành hoá chất và đây cũng là nhiệm vụ của ngành hoá chất trong quá trình xây dựng nền kinh tế phát triển bền vững.

So với các nước Đông Nam Á khác như Indonexia, Thái Lan, Xingapo thì công nghiệp hoá chất Việt Nam hãy còn nhỏ bé. Cho tới nay, chúng ta chỉ mới khai thác dầu thô, đang xây dựng nhà máy lọc dầu. Có công nghiệp hoá dầu mới phát triển mạnh các ngành sản xuất hoá chất hữu cơ và sản phẩm từ háo chất hữu cơ như sản xuất phân đạm, sợi hoá học, sơ, chất dẻo… Khai thác khoáng sản ở ta cũng chưa phát triển, chỉ ở mức xuất khẩu quặng, chưa có công nghệ chế biến tiên tiến. Ngành sản xuất hoá chất vô cơ chưa đáp ứng nhu cầu trong nước.

Sự ra đời của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam là một dấu ấn quan trọng, một bước ngoặt lịch sử, tạo ra thế và lực mới để phát triển Ngành hóa chất Việt Nam trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21.

Khác với đóng góp trực tiếp vào nông nghiệp. Công nghiệp hóa chất đóng góp gián tiếp cho hầu hết mọi lĩnh vực của mỗi nền kinh tế. Trong cuộc sống hàng ngày, con người sử dụng rất nhiều sản phẩm công nghiệp và hầu hết trong đó có liên quan đến Công nghiệp hóa chất theo cách này hay cách khác.

Sản xuất hàng tiêu dùng sử dụng khoảng 10% hóa chất trực tiếp, nhưng các ngành khác gián tiếp tham gia vào hàng tiêu dùng cũng sử dụng đáng kể các sản phẩm hóa học.

Các sản phẩm hóa chất thông thường bao gồm bột màu, cao su tổng hợp, polyme, nhựa và chất nổ. Nhựa, muối, axit và phân bón là những sản phẩm được sử dụng rộng rãi và gắn bó cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày của con người. Các ngành công nghiệp hàng tiêu dùng, nông nghiệp và các nhà sản xuất đều sử dụng các sản phẩm này.

Tại sao công nghiệp hóa chất là ngành mũi nhọn trong kinh tế của quốc gia ?

Công nghiệp hóa chất có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân- đời sống.

Ngành công nghiệp hóa chất làm xuất hiện sự cạnh tranh giữa các quốc gia, các ngành công nghiệp và các công ty trên toàn cầu.

Lợi thế so sánh các quốc gia đã trở thành một vấn đề không còn chủ yếu dựa trên lợi thế về tài nguyên nữa.

Quá trình này được xuất phát từ lịch sử của ngành công nghiệp hóa chất kể từ thập niên 1850. Sự phát triển của ngành hóa chất công nghiệp kéo theo sự phát triển của nhiều ngành khác. Chính sách mà chính phủ duy trì và cải thiện tốc độ tăng trưởng và mức sống của từng đất nước.

Khác với đóng góp trực tiếp vào nông nghiệp. Công nghiệp hóa chất đóng góp gián tiếp cho hầu hết mọi lĩnh vực của mỗi nền kinh tế. Trong cuộc sống hàng ngày, con người sử dụng rất nhiều sản phẩm công nghiệp và hầu hết trong đó có liên quan đến Công nghiệp hóa chất theo cách này hay cách khác.

Hóa chất cơ bản hoặc “hóa chất hàng hóa” là một loại hóa chất rộng bao gồm polyme, hóa dầu số lượng lớn và trung gian, các dẫn xuất khác và công nghiệp cơ bản, hóa chất vô cơ và phân bón. Tốc độ tăng trưởng điển hình của hóa chất cơ bản là khoảng 0,5 đến 0,7 lần GDP.Các sản phẩm hóa chất với ứng dụng cơ bản bao gồm các loại polymer, phân bón, hóa dầu và các dẫn xuất, chất vô cơ.

Công nghiệp hóa chất sản xuất sợi và thuốc nhuộm được sử dụng trong ngành công nghiệp dệt.

Quyết định tính chất nhựa của ngành công nghiệp bao bì, cao su nhân tạo đáp ứng bởi các ngành công nghiệp hóa chất.

Ngành hóa chất mang sản phẩm đời sống thường được sản xuất với các thông số kỹ thuật rất cao và được các cơ quan chính phủ giám sát chặt chẽ như Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm. Thuốc trừ sâu, còn được gọi là “hóa chất bảo vệ thực vật”, chiếm khoảng 10% loại này và bao gồm thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu và thuốc diệt nấm.

Cung cấp chất ngọt tổng hợp và hương liệu tổng hợp được sử dụng bởi các công ty sản xuất thực phẩm. Ngành hóa chất công nghiệp gián tiếp giúp ngành công nghiệp dược phẩm và chăm sóc sức khỏe bằng cách cung cấp các háo chất thiết bị y tế.

Ngành hóa chất sử dụng các hóa chất công nghiệp đặc biệt. Ứng dụng bao gồm hóa chất điện tử, khí công nghiệp, chất kết dính và chất bịt kín cũng như chất phủ, hóa chất làm sạch công nghiệp và thể chế và chất xúc tác.

Năm 2012, không bao gồm hóa chất tinh khiết, thị trường hóa chất đặc biệt toàn cầu trị giá 546 tỷ USD là 33% Sơn, Sơn và Xử lý bề mặt, 27% Polymer tiên tiến, 14% chất kết dính và chất bịt kín, 13% phụ gia và 13% sắc tố và mực.

Ngành hóa chất đóng góp rất quan trọng cho sự giàu có của một quốc gia.

Tạo lợi nhuận và cơ hội việc làm cho hàng ngàn lao động trong và ngoài nước.

Hoahocngaynay.com

Nguồn: Vinachem

Chia sẻ:

QUẢNG CÁO

Tin liên quan:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *