(H2N2)-Một phương pháp khoan dầu mới đã phát hiện những giếng dầu rộng lớn trước đây khó tiếp cận tại miền Tây nước Mỹ, ngăn chặn đà suy thoái của ngành công nghiệp sản xuất dầu thô tại đất nước này kéo dài suốt hai thập kỷ qua.
Hình minh họa. Nguồn ảnh: Internet |
Nhiều công ty đã đầu tư hàng tỷ USD để sở hữu các mỏ dầu nằm rải từ North Dakota, Colorado, Texas cho tới California. Giới phân tích nhận định từ nay cho tới năm 2015, những giếng dầu mới này có khả năng mang lại 2 triệu thùng dầu mỗi ngày – nhiều hơn lượng dầu toàn vịnh Mexico sản xuất hiện nay. Phương pháp khoan mới dự kiến sẽ tăng ít nhất 20% sản lượng dầu tại Mỹ trong 5 năm tới, và trong vòng 10 năm, nó có thể giúp Mỹ giảm hơn một nửa lượng dầu nhập khẩu so với hiện nay, vượt qua mục tiêu mà bấy lâu nay luôn lẩn tránh các nhà hoạch định chính sách nước này.
“Đây là một đóng góp quan trọng cho ngành an ninh năng lượng”, ông Ed Morse, trưởng nhóm nghiên cứu hàng hóa tại Credit Suisse, nhận xét. Tuy vậy, phương pháp khai thác khí đốt tự nhiên nằm sâu trong lòng đất được phát triển những năm gần đây đang bị chỉ trích về tác hại mà nó gây ra với môi trường. Phương pháp này yêu cầu phải đào đá theo chiều ngang, sau đấy bơm nước, cát và các hóa chất xuống để phá vỡ túi chứa, mở đường cho khí đốt phun lên.
Do các phân tử dầu kết dính và có kích thước lớn hơn các phân tử khí, các kỹ sư cho rằng quá trình khai thác dầu không đủ nhanh để giúp họ đạt được hiệu quả kinh tế. Nhưng các công ty khoan dầu đã biết cách tăng số lỗ khoan trên các phiến đá và sử dụng các chất hóa học khác nhau nhằm lấy được nhiều dầu hơn với chi phí thấp hơn.
“Chúng tôi đã hoàn toàn làm thay đổi ngành công nghiệp khí đốt tự nhiên, và tôi sẽ không ngạc nhiên nếu trong vài năm tới, chúng tôi sẽ làm thay đổi toàn ngành dầu khí,” ông Aubrey McClendon, giám đốc điều hành Chesapeake Energy, một công ty sử dụng kỹ thuật khoan này nói.
Các kỹ sư ngành dầu khí bắt đầu ứng dụng phương pháp này từ năm 2007 để khai thác một túi dầu tại một khu vực có diện tích 25.000 dặm vuông (tương đương 64.750 km vuông) nằm bên dưới vùng North Dakota và Montana mang tên Bakken. Nhờ vậy, sản lượng dầu nơi đây đã tăng 50% chỉ trong năm vừa qua, lên mức 458 nghìn thùng mỗi ngày, theo số liệu từ công ty phân tích năng lượng Bentek Energy. Ban đầu, người ta nghĩ Bakken là khu vực duy nhất có khả năng khai thác được một lượng lớn dầu như vậy với phương pháp này. Tuy nhiên sau đó, các công ty khai thác dầu còn phát hiện thêm nhiều khu vực khác có tiềm năng tương tự, trải dài dưới địa phận các bang Colorado, Nebraska, Kansas, New Mexico, Texas, và California. “Chỉ trong 12 tháng trở lại đây, người ta mới nhận ra hiệu quả mà phương pháp này mang lại,” Mark Papa, giám đốc điều hành EOG Resources, công ty đầu tiên sử dụng phương pháp khoan này cho hay. “Và sẽ có thêm nhiều công ty tham gia vào lĩnh vực này trong vòng 18 tháng tới.”
Trong khi đó, các nhà môi trường lo ngại rằng chất lỏng và nước thải phát sinh từ quá trình khai thác dầu có nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước sạch. Vì lẽ đó, Cơ quan Bảo vệ Môi sinh Hoa Kỳ EPA hiện đang bắt tay vào nghiên cứu mức độ an toàn của phương pháp khoan này.
Tại khu vực Bakken, dầu được khai thác nhanh tới mức đường ống hiện có không đủ đáp ứng để dẫn dầu ra thị trường. Thay vào đó, dầu được đưa đến các nhà máy lọc dầu bằng tàu hỏa và xe tải. Bên cạnh đó, các công ty khai thác dầu đã phải dựng các lều lán làm chỗ tá túc cho công nhân. Cũng nhờ phương pháp khoan mới này, tỷ lệ thất nghiệp tại North Dakota đã giảm xuống mức thấp nhất tại Mỹ, chỉ còn 3,8%, chưa bằng một nửa tỉ lệ thất nghiệp trung bình cả nước (9%).
Dự kiến Bakken và Eagle Ford sẽ sản xuất khoảng 4 tỷ thùng dầu mỗi vùng, đưa chúng trở thành những khu vực khai thác dầu lớn thứ 5 và thứ 6 tại Mỹ. Top 4 khu vực dẫn đầu gồm có vịnh Prudhoe tại Alaska, Spraberry Trend thuộc vùng Tây Texas, mỏ dầu phía Đông Texas và vùng Kuparuk tại Alaska. Các khu vực này đang thu hút hàng tỉ USD từ những đại gia dầu mỏ khổng lồ trên thế giới, như Royal Dutch Shell, BP và Statoil, bên cạnh đó là sự góp mặt của các công ty khoan dầu nhỏ hơn của Mỹ có công tham gia phát triển kỹ thuật mới như Chesapeake, EOG Resources và Occidental Petroleum.
Vào tháng trước, Tập đoàn dầu khí quốc gia Trung Quốc CNOOC đã chi cho Chesapeake 570 triệu USD để nắm giữ một phần ba số cổ phần trong một dự án khoan dầu tại Niobara. Trước đó, một hợp đồng trị giá 1 tỷ USD cũng đã được hai công ty này ký kết trong một dự án khác tại Eagle Ford hồi tháng 10 năm ngoái.
Tại Mỹ, trữ lượng dầu từ lòng đất không được dồi dào như trữ lượng khí đốt tự nhiên. Các công ty dầu khí đã nhận thấy giá trị của khí tự nhiên trong nhiều thập kỷ qua. Sự dồi dào của nguồn tài nguyên này mang đến sự bình ổn giá trong nhiều năm liền. Trong khi đó, dầu từ lòng đất tại Mỹ chỉ đủ để thoả mãn từ 1-2% lượng tiêu thụ dầu của toàn thế giới tới năm 2015, chưa đủ để tác động đến giá thành của nguồn tài nguyên này. Dù vậy, lượng dầu khai thác được tại Bakken cũng đã giúp ngành sản xuất dầu mỏ tại Mỹ tăng trưởng lần thứ hai, kết thúc chuỗi 23 năm suy giảm liên tục.
Theo dự đoán của giới phân tích, trong vòng 5 năm tới, những giếng dầu vừa được phát hiện sẽ sản xuất từ 1 đến 2 triệu thùng dầu mỗi ngày, đủ để vực dậy ngành sản xuất dầu của Mỹ và đẩy mức tăng trường lên 20 đến 40%. Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ ước tính hoạt động sản xuất sẽ đạt sản lượng 500 nghìn thùng dầu mỗi ngày. Tới năm 2020, hoạt động nhập khẩu dầu tại nước này có thể giảm xuồng còn 60%, theo dự đoán của Morce, một chuyên gia tại Credit Suisse.
Với giá dầu khoảng 90 USD mỗi thùng như hiện nay, việc cắt giảm hoạt động nhập khẩu dầu sẽ tiết kiệm cho Mỹ 175 tỷ USD mỗi năm. Vào năm ngoái, khi giá trung bình mỗi thùng dầu là 78 USD, Mỹ đã phải chi 260 tỷ USD để mua dầu thô từ các thị trường ngoài nước, chiếm gần một nửa thâm hụt thương mại trong cả năm (500 tỷ USD).
Đình Ngân dịch từ MSN
Nguồn Vietnamnet